I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Diễn đàn Kinh tế Việt Nam đưa tin: Từ 1/7: Kiểm kê tài sản tập đoàn Nhà nước. Bài báo đưa tin: Theo Bộ Tài chính, một cuộc kiểm kê tài sản quy mô lớn nhất từ trước tới nay đối với các doanh nghiệp sở hữu 100% vốn nhà nước trực thuộc các tập đoàn và tổng công ty, sẽ được thực hiện từ 0 giờ ngày 1/7.
Theo lộ trình, đến ngày 30.10 các doanh nghiệp phải hoàn thành kiểm kê, báo cáo công ty mẹ (tập đoàn, tổng công ty) để trước ngày 30.11 gửi về Bộ Tài chính theo dõi và giám sát.
2. Báo Đầu tư có bài Cổ phần hoá DNNN: bán được 1% cũng quý. Bài báo phản ánh: "Sau 3 năm ngưng trệ, tiến trình CPH các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang có tín hiệu rất tích cực sau khi Tổng công ty thép Việt Nam (VNSteel) tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu (IPO), bởi diễn biến này đang thu hút sự quan tâm của các NĐT tư tổ chức, trong đó có NĐT nước ngoài…", Tiến sĩ Alan T.Pham, Trưởng kinh tế gia của VinaSecurities cho biết khi trao đổi với ĐTCK.
Sau khi VNSteel tổ chức IPO không mấy thành công, có ý kiến quan ngại việc chuẩn bị IPO Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) sẽ tạo ra nhiều sức ép bất lợi. Ông nghĩ sao?
CPH các DNNN là chủ trương lớn của Chính phủ và từ lâu, điều NĐT trong và ngoài nước mong muốn là cần đẩy nhanh tiến trình này, để cải cách mạnh mẽ các DNNN. Bởi vậy, tín hiệu CPH đang được hâm nóng trở lại sau 3 năm trầm lắng là điều rất tích cực cho cả Nhà nước, các DN và cả TTCK xét trên lợi ích dài hạn. Do đó, nhiều NĐT tổ chức, trong đó có NĐT nước ngoài đánh giá cao quyết tâm đẩy nhanh tiến trình CPH của Chính phủ, đặc biệt là sau khi IPO VNSteel và sắp tới là Petrolimex và MHB. Nếu vì lý do TTCK khó khăn mà chậm trễ, CPH theo lịch trình đã định, thì không biết chờ đến bao giờ và điều bất lợi là không tạo được niềm tin trong cộng đồng đầu tư.
Nhưng IPO trong bối cảnh khó khăn hiện nay thì tỷ lệ bán đấu giá thành công rất thấp, giá cũng không được cao, ảnh hưởng không tích cực đến hình ảnh của DN?
Tôi không nghĩa như vậy, bởi bán được 1% lúc này đã là rất quý. Giá trị chưa hẳn nằm ở tỷ lệ 1% hay 20% mà ở nhiều khía cạnh khác. Điều quan trọng là sau khi IPO, các DNNN lớn, trong đó có các tập đoàn, tổng công ty, sẽ chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Với mô hình này, các DN buộc phải tuân thủ chế độ công khai thông tin về tài chính, hoạt động theo quy định, qua đó tạo thuận lợi cho NĐT trong và ngoài nước cùng tham gia giám sát hoạt động của các DN này. Nghĩa là sự minh bạch của DN tăng lên, nên ít nhiều sẽ tạo sức ép cho ban lãnh đạo DN trong quản lý, điều hành sao cho hiệu quả, chứ không thể giữ cung cách làm ăn kiểu bao cấp như trước. Mặt khác, giá IPO thấp là cơ hội tốt để thu hút NĐT tham gia và điều này là hoàn toàn hiện thực tại các DN làm ăn hiệu quả và có nhiều tiềm năng như Petrolimex, cũng như một số DN sản xuất khác mà Việt Nam đang có dự định IPO thời gian tới.
Từ sự quan tâm đến đưa ra quyết định giải ngân vào các đợt IPO của NĐT tổ chức, nhất là NĐT nước ngoài đang còn khoảng cách khá xa. Làm gì để rút ngắn khoảng cách này, thưa ông?
NĐT nước ngoài có bỏ tiền vào các đợt IPO lớn sắp tới hay không tuỳ thuộc vào hai điểm chính. Trước tiên và quan trọng nhất là hành động điều hành chính sách vĩ mô của Chính phủ, các NĐT nước ngoài mong muốn, trong bất cứ giai đoạn nào, Chính phủ cũng phải hướng đến lấy ổn định làm trọng. NĐT luôn "cho điểm" cao điều này, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và từng DN giảm tốc, nhưng đổi lại, họ nhìn thấy những giá trị bền vững, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định trong dài hạn. Diễn biến vĩ mô hiện tại đang dần lấy lại niềm tin trong cộng đồng NĐT, khi thị trường tiền tệ đang ổn định dần, lạm phát tiếp tục đi xuống và Chính phủ cần duy trì định hướng điều hành này trong thời gian tới. Thứ hai, Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 109, để tháo gỡ những vướng mắc đang gặp phải trong quá trình CPH như đề xuất với nhiều bước đột phá của Bộ Tài chính như: cho phép DN được bán cổ phần cho cổ đông chiến lược trước khi IPO; việc xác định giá trị DN minh bạch hơn, bám sát thị trường hơn…
3. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu. Bài báo phản ánh: Sáng 28-6, Hội nghị giao ban công tác phòng, chống tham nhũng 12 tỉnh, TP cụm đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ đã diễn ra ở Hà Nội. Đến dự hội nghị có đồng chí Nguyễn Đình Phách, Chánh văn phòng BCĐ Trung ương về PCTN; đồng chí Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND TP Hà Nội, Trưởng BCĐ PCTN TP Hà Nội và đại diện của Ban chỉ đạo PCTN thuộc 12 tỉnh, TP cụm đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ…
Đồng chí Đỗ Ngọc Toàn, Phó Trưởng Ban thường trực BCĐ PCTN TP Hà Nội nhận định, 6 tháng đầu năm 2011, Văn phòng BCĐ TP Hà Nội đã phối hợp với các cơ quan báo chí triển khai công tác tuyên truyền, mở chuyên trang, chuyên mục và thường xuyên có tin bài về công tác PCTN; xây dựng kế hoạch và mở lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức PCTN cho lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc TP . Văn phòng Ban chỉ đạo PCTN TP Hà Nội cũng tích cực tham gia các đoàn kiểm tra liên ngành để tiến hành kiểm tra công tác PCTN.
Đại diện BCĐ PCTN các tỉnh Hà Tĩnh, Thái Bình, Thanh Hóa kiến nghị, cần bổ sung đối tượng cán bộ, công chức làm công tác PCTN được hưởng chế độ thâm niên như các cơ quan Thanh tra, CA, Kiểm sát…; tăng cường cơ sở vật chất và điều kiện làm việc cho các cơ quan PCTN… Hầu hết các cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng. báo cáo đều cho rằng, cần qui định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các
4. Báo Giáo dục và Thời đại có bài Thiếu hàng nghìn giáo viên giảng dạy pháp luật, GDCD. Bài báo đưa tin: Theo thống kê ở 38 sở GD&ĐT, cấp THPT còn thiếu 1339 giáo viên và hơn 15% giáo viên hiện có không đúng chuyên ngành; cấp THCS thiếu 1792 giáo viên và hơn 43% giáo viên hiện có dạy không đúng chuyên ngành. 38,4% giáo viên giảng dạy môn pháp luật của TCCN cũng chưa được đào tạo đúng ngành luật. Một số tỉnh còn rất nhiều giáo viên dạy không đúng chuyên ngành, có một số địa phương giáo viên chuyên ngành thể dục được bố trí dạy giáo dục công dân.
Đối với các trường nghề, có 95% các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề có đủ giáo viên giảng dạy môn học pháp luật, trong đó 87,8% giáo viên giảng dạy pháp luật đạt chuẩn…
Cũng theo Bộ GD&ĐT, đội ngũ giáo viên, giảng viên giảng dạy giáo dục công dân, giáo viên pháp luật chưa qua đào tạo chính quy về luật, chưa được bồi dưỡng cập nhật kiến thức pháp luật phục vụ việc giảng dạy còn chiếm tỷ lệ lớn. Theo thống kê sơ bộ có 40% giáo viên THCS chưa được đào tạo chính ban về giáo dục công dân; 48,4% giáo viên giảng dạy môn pháp luật của TCCN chưa được đào tạo từ ngành luật mà được đào tạo từ các ngành khác. Bên cạnh đó, đội ngũ này thường không ổn định, dạy kiêm nhiệm; chưa có chế độ, chính sách thỏa đáng để tạo nguồn giáo viên và để thu hút, gắn bó họ với công việc.
Đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, báo cáo viên pháp luật còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ chuyên môn và chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ một cách bài bản. Hiện tại mới có 22% cán bộ pháp chế các sở GD&ĐT, 37% cán bộ pháp chế các trường đại học, cao đẳng có trình độ cử nhân luật trở lên.
5. Báo VnEconomy có bài Lãnh đạo Bộ Xây dựng nói về đề xuất “giải cứu” bất động sản. Bài báo phản ánh: Việc đề xuất kiến nghị “giải cứu” thị trường bất động sản không phải là lợi ích của Bộ Xây dựng, cũng chẳng phải là lợi ích của nhóm nào cả mà là vì nền kinh tế.
Thông tin trên được Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam khẳng định với VnEconomy chiều ngày 29/6, sau khi Bộ vừa có đề xuất gửi tới Ngân hàng Nhà nước về chính sách tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản.
Cụ thể, Bộ Xây dựng chính thức đề nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu và hướng dẫn các ngân hàng thương mại điều chỉnh tỷ trọng các khoản vay đối với lĩnh vực bất động sản. Hiện có nhiều thông tin trái chiều bình luận về những đề xuất này. Nhiều ý kiến cho rằng cứ để thị trường bất động sản diễn ra theo quy luật vốn có của nó chứ không cần phải “giải cứu”.
Trong các phản hồi về VnEconomy, nhiều ý kiến khác cũng nhìn nhận rằng, chính sách thắt chặt tín dụng của Ngân hàng Nhà nước đối với lĩnh vực bất động sản thời gian qua là hoàn toàn đúng đắn; nên tiếp tục duy trì chính sách này, đặc biệt, đây là thời điểm để đưa giá bất động sản về gần với giá trị thực của chúng.
Không những thế, một số quan điểm lý giải việc đề xuất “giải cứu” cho thị trường bất động sản của Bộ Xây dựng là “để cứu nhóm lợi ích hơn là lành mạnh hóa thị trường và hỗ trợ tích cực những người có nhu cầu thực mà chưa tiếp cận được với nhà ở…” (?).
Khi chuyển những phản hồi trên trước đề xuất của Bộ Xây dựng, Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam thẳng thắn nói: nhiều người còn chưa hiểu, chưa nắm rõ được đề xuất của Bộ Xây dựng, vì Bộ không đề xuất nới lỏng tín dụng mà là đề xuất chuyển dịch cơ cấu cho vay đối với các khoản mục bất động sản.
“Trong lĩnh vực bất động sản có rất nhiều thành phần cho vay khác nhau. Đề xuất ở đây chỉ là chuyển đổi từ cái này sang cái kia cho linh hoạt, cơ cấu lại tỷ trọng tín dụng các thành phần bất động sản cho đúng hướng và phù hợp với thực tiễn. Và tổng cộng tỷ lệ tín dụng cho nó (bất động sản- PV) thì vẫn phải giảm. Đấy chính là chống lạm phát, là kiểm soát dòng tiền”, ông Nam nói.
Vị Thứ trưởng cũng khẳng định rằng, điều cơ bản là Bộ Xây dựng ủng hộ Nghị quyết 11 của Chính phủ là kiểm soát dòng tiền và giảm tín dụng vào bất động sản.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Cand.com có bài Kỷ luật Chi cục trưởng Thi hành án huyện Tuy Hòa. Bài báo phản ánh: Ngày 28/6, nguồn tin từ cơ quan chức năng cho biết, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Phú Yên vừa công bố quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Đinh Thiên Tường (35 tuổi), Bí thư Chi bộ, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Tây Hòa, thuộc Cục THADS tỉnh Phú Yên.
Ngoài ra, UBKT Tỉnh ủy Phú Yên còn kiến nghị Bộ Tư pháp, Tổng cục, Cục THADS tỉnh Phú Yên xử lý kỷ luật về mặt chính quyền bằng hình thức buộc thôi việc, đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan hành vi sai phạm của Đinh Thiên Tường cho Cục Điều tra Viện KSND Tối cao tiến hành hoạt động điều tra và xử lý theo quy định pháp luật về hình sự.
Theo kết quả thẩm tra xác minh của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Phú Yên, khi còn là chấp hành viên cơ quan THADS huyện Phú Hòa, ông Đinh Thiên Tường đã làm trái pháp luật khi kê biên, tổ chức bán đấu giá ngôi nhà của vợ chồng ông Nguyễn Đức Trung – Võ Thị Mốc ở thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa.
Thậm chí, ông Tường còn nhờ người thân quen tham gia đấu giá ngôi nhà, sau đó tổ chức một phiên đấu giá giả để chuyển dịch tài sản đó cho người khác nhằm trục lợi cá nhân. Mặt khác, Đinh Thiên Tường còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cố ý làm trái khi tổ chức thẩm định chất lượng, định giá 22 xe máy đã bị tịch thu sung công quỹ Nhà nước trái quy định pháp luật.
2. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Thực hiện thí điểm thừa phát lại tại TPHCM - Cần được hỗ trợ. Bài báo phản ánh: TPHCM là địa phương đầu tiên trong cả nước thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại. Hoạt động từ giữa năm 2010, 5 văn phòng thừa phát lại đã góp phần giảm tải cho công việc của ngành tòa án và ngành thi hành án dân sự; đồng thời tạo thêm mô hình để người dân lựa chọn khi thi hành bản án, quyết định của tòa án. Tuy nhiên, đến nay hoạt động của các văn phòng thừa phát lại vẫn gặp không ít khó khăn do thiếu sự hợp tác từ nhiều phía.
Sau một năm hoạt động, các văn phòng thừa phát lại quận 1, quận 5, quận 8, quận Tân Bình, quận Bình Thạnh đã ký hợp đồng dịch vụ tống đạt văn bản với 23 tòa án, 25 cơ quan thi hành án dân sự và thực hiện tống đạt 14.007 văn bản; lập 1.829 vi bằng các sự kiện, hành vi; xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự trong 66 vụ việc; trực tiếp tổ chức thi hành xong 11 vụ việc, đang thụ lý thi hành 20 vụ việc theo các bản án, quyết định của tòa án. Trong đó, việc lập vi bằng tuy mới mẻ nhưng đã nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu khá lớn của người dân trong việc xác lập chứng cứ để giải quyết các tranh chấp tại tòa án cũng như thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế. Dù vậy, đến nay với nhiều cơ quan, đơn vị, chế định này vẫn là một khái niệm xa lạ, từ đó dẫn đến không sẵn sàng hợp tác khi được yêu cầu.
Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 12/ ngày 24-6-2010 giữa Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, TAND tối cao hướng dẫn một số điều của Nghị định 61 ngày 24-7-2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TPHCM, việc thanh toán chi phí tống đạt được thực hiện hàng tháng. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được hóa đơn dịch vụ, tòa án, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm thanh toán bằng hình thức chuyển khoản cho văn phòng thừa phát lại. Tuy nhiên, trong thực tế, phải mất thời gian khá lâu, văn phòng thừa phát lại mới nhận được khoản tiền này do thủ tục rườm rà.
Bên cạnh đó, một số quy định chưa phù hợp thực tế cũng gây khó khăn cho hoạt động của thừa phát lại. Bà Vũ Thị Trường Hạnh (Trưởng Văn phòng thừa phát lại quận 8) cho biết: Điều 1 Thông tư số 12 quy định chi phí thực hiện việc tống đạt chỉ từ 50.000 đến 100.000 đồng mỗi đầu việc, bao gồm cả thuế GTGT.
Trong khi đó, có những việc phải đi rất nhiều lần mới tống đạt được văn bản đến tận tay người nhận. Gặp những trường hợp địa bàn tống đạt xa như huyện Củ Chi hay lạc vào khu “nhà không số, phố không tên” thì tiền xăng còn nhiều hơn chi phí Nhà nước trả.
Ông Phạm Quang Giang (Trưởng Văn phòng thừa phát lại quận 5) đề xuất thêm: Trong bản án, quyết định của tòa án nên bổ sung nội dung: “Sau khi bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền liên hệ cơ quan thi hành án dân sự hoặc văn phòng thừa phát lại để yêu cầu thi hành án” nhằm tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các bên.
3. Báo Tiền phong Online có bài Sai lệch ủy quyền, nhập nhèm thế chấp - Kỳ hai: Nhập nhèm thế chấp. Bài báo phản ánh: Để đảm bảo thống nhất trong áp dụng pháp luật, sự lành mạnh trong hoạt động tín dụng, giúp người nghèo có thể vay và sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng, cần sớm có các giải pháp cụ thể, khả thi.
Chế định Thế chấp trong Bộ luật Dân sự 2005 được quy định tại các Điều từ 318 đến 325 (quy định chung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự); từ 342 đến 357 (quy định về Thế chấp); từ 715 đến 721 (quy định về Hợp đồng thế chấp QSDĐ). Nó cũng được quy định tại Điều 52 Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi 2004). Riêng tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất (QSDĐ), nó còn được quy định tại Điều 130 Luật Đất đai 2003.
Theo đó, Thế chấp là một trong những chế định pháp lý áp dụng cho giao dịch bảo đảm bằng tài sản; Chủ sở hữu tài sản (SHTS) “dùng tài sản thuộc sở hữu của mình bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Bên kia”. Bên thế chấp phải là Chủ SHTS, “thuộc tính” này được quy định thống nhất giữa các bộ luật. “Bên thứ ba” không xuất hiện trong chế định Thế chấp, chỉ xuất hiện trong chế định Bảo lãnh.
Tuy nhiên, thực tế đang có rất nhiều giao dịch thế chấp tài sản vay vốn tín dụng xuất hiện Bên thứ ba, trường hợp ông T - Cty K - Ngân hàng nêu ở kỳ trước là một ví dụ. Theo nhiều chuyên gia pháp luật, khi Hợp đồng thế chấp đã xác định Bên thế chấp là ông T mà Hợp đồng tín dụng lại xác định Bên vay là Cty K, là sai chủ thể vay tín dụng (theo quy định tại các bộ luật đã nêu, Bên vay chỉ có thể là ông T).
Trường hợp ông T - Cty K - Ngân hàng không phải cá biệt. Hiện đang có những cách hiểu khác nhau về chế định Thế chấp. Nhiều cá nhân, doanh nghiệp, công chứng viên, tổ chức tín dụng… cho rằng Bên thế chấp có thể là Bên thứ ba.
Cách hiểu như vậy dường như xuất phát từ một “kẽ hở” pháp lý. Đó là một quy định trong khoản 4 Điều 72 Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định 163). Theo quy định này, khi vay vốn tín dụng có tài sản bảo đảm, việc bảo lãnh bằng QSDĐ được chuyển thành việc thế chấp QSDĐ của người thứ ba.
Tại các bộ luật đã nêu, Thế chấp và Bảo lãnh không chỉ khác nhau về chủ thể SHTS, chủ thể vay tín dụng, mà còn khác nhau về thủ tục vay tín dụng, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm. Quy định trên của Nghị định 163 đã xóa nhòa những khác biệt. Chưa ai rõ sự sửa đổi này dựa trên căn cứ pháp lý nào, tuy nhiên, hoạt động tín dụng những năm gần đây đã cho thấy “cái lợi” và “cái hại” của nó.
Theo Nghị định 163, thay vì áp dụng chế định Bảo lãnh (thông qua tòa án phong tỏa tài sản Bên thứ ba chỉ khi Bên vay không thực hiện nghĩa vụ), các tổ chức tín dụng được áp dụng chế định Thế chấp (phong tỏa tài sản Bên thứ ba trước khi Bên vay phát sinh nghĩa vụ). Điều này có thể giúp các tổ chức tín dụng dễ tiếp cận nhiều đối tượng vay vốn hơn, với các thủ tục chặt chẽ hơn, rủi ro thấp hơn.
Nghị định 163 được ban hành gần như cùng lúc với Luật Công chứng 2006, mà điểm nổi bật là cho phép ra đời các Văn phòng công chứng bên cạnh các Phòng công chứng nhà nước. Khi ồ ạt xuất hiện các Văn phòng công chứng, bên cạnh những công chứng viên nghiệp vụ tinh thông, đạo đức vững vàng, khó tránh khỏi “chen” vào đội ngũ họ những người thiếu kinh nghiệm và đạo đức.
Những vụ “mượn sổ đỏ” đem bán hoặc thế chấp, các đối tượng lừa đảo đều có thứ vũ khí hư hư thực thực giúp họ dễ dàng chiếm đoạt tài sản người khác, đó là các “Hợp đồng ủy quyền”, “Hợp đồng thế chấp” sai luật, song được công chứng viên chứng nhận.
Tuy nhiên, quy định trên của Nghị định 163 lại khiến cho các Chủ SHTS lợi thì có lợi, nhưng răng không còn. Khi không là Bên vay, nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng khó đến được tay họ. Một bất lợi nữa, thay vì sau khi trả nợ cho Bên vay, họ có quyền đòi khoản nợ này từ Bên vay, nếu áp dụng chế định Bảo lãnh, thì khi áp dụng chế định Thế chấp của Nghị định 163, họ “bỗng dưng” bị tước đi quyền này.
Từ những phân tích trên đây, nhiều chuyên gia pháp luật mạnh dạn đưa ra những kiến nghị cụ thể:
- Cần có văn bản quy phạm pháp luật hủy bỏ phần trích dẫn trong bài này của Khoản 4 Điều 72 Nghị định 163, đồng thời bổ sung các quy định chặt chẽ hơn về nguyên tắc, điều kiện, trình tự - thủ tục thực hiện các hợp đồng dân sự có tài sản bảo đảm nói chung, QSDĐ nói riêng, như Hợp đồng ủy quyền, Hợp đồng thế chấp, Hợp đồng bảo lãnh, Hợp đồng tín dụng.
- Trước mắt, các cơ quan có thẩm quyền cần khuyến cáo các Phòng công chứng và Văn phòng công chứng không chứng nhận, và các tổ chức tín dụng không cho vay tiền theo Hợp đồng thế chấp mà tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của Bên thứ ba.