Điểm tin báo chí sáng ngày 28 tháng 6 năm 2011

28/06/2011
Trong buổi sáng ngày 28/6/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Trang thông tin chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam có bài Thông tin báo chí chung Việt Nam - Trung Quốc. Bài báo đưa tin: Ngày 25/6, tại Bắc Kinh, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, Đặc phái viên của Lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã gặp Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc, chuyển ý kiến của Lãnh đạo Việt Nam tới Lãnh đạo Trung Quốc về quan hệ hai nước và tình hình Biển Đông thời gian gần đây.

Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc đã trình bày lập trường và chủ trương của phía Trung Quốc về việc phát triển quan hệ song phương và vấn đề trên biển. Trước đó, Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đã hội đàm với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân.

 Hai bên cho rằng, quan hệ Việt-Trung phát triển lành mạnh, ổn định, đáp ứng nguyện vọng chung và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước Việt-Trung, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực. Hai bên nhấn mạnh, cần kiên trì đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển theo đúng phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

 Hai bên khẳng định, cần tích cực thực hiện nhận thức chung của Lãnh đạo hai nước, giải quyết hòa bình các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị; áp dụng biện pháp có hiệu quả, cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông; tăng cường định hướng đúng đắn dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị và lòng tin của nhân dân hai nước; đẩy nhanh tiến độ đàm phán để sớm ký kết “Thỏa thuận về các Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc”; thúc đẩy việc thực hiện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và các công việc tiếp theo, cố gắng sớm đạt tiến triển thực chất.

2. Báo VnEconomy có bài Điều chỉnh chỉ tiêu GDP, CPI: Có cần thiết? Bài báo phản ánh: Nếu khai thác tối đa các tiềm năng và nguồn lực trong nền kinh tế, tăng trưởng GDP cả năm 2011 có thể đạt khoảng 6 - 6,5%, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra dự báo trong một báo cáo mới nhất về tình hình kinh tế - xã hội, vừa được gửi đến Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Tuy nhiên, Chính phủ dự kiến sẽ điều hành tăng trưởng GDP với tốc độ khoảng 6%, là mức tăng trưởng hợp lý để vừa bảo đảm duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, vừa tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, báo cáo nêu rõ.

Đáng chú ý, bên cạnh GDP, tại bản báo cáo này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhấn mạnh 6 tháng cuối năm cần tập trung chỉ đạo, điều hành để thực hiện một số chỉ tiêu cơ bản của năm 2011, như: kiểm soát lạm phát ở mức khoảng 15%, kiểm soát tăng trưởng tín dụng dưới 20%, nhập siêu không quá 16%. Đặc biệt, giảm bội chi ngân sách Nhà nước xuống dưới 5% GDP với mức phấn đấu khoảng 4,8%.

Như vậy, chỉ tiêu tăng trưởng GDP đã giảm so với con số 7 -7,5%, vốn được Quốc hội “chốt” tại nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thì đã gần gấp hai lần con số được đa số đại biểu Quốc hội nhấn nút thuận cho cả năm 2011 là 7%. Và con số thực tế của gần 6 tháng qua đã vào khoảng 16% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ tiêu nhập siêu cũng đã được hạ từ không quá 18% xuống 16% kim ngạch xuất khẩu.

Cho rằng Chính phủ đã phát ra tín hiệu điều chỉnh chỉ tiêu lạm phát và chỉ tiêu tăng trưởng, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sỹ Kiêm dường như hơi sốt ruột, khi không có mấy ý kiến bàn về vấn đề này tại cuộc họp của Ủy ban Kinh tế cuối tuần qua. Bởi, theo ông Kiêm, nếu chấp nhận thay đổi chỉ tiêu thì tư tưởng chỉ đạo sẽ khác và các biện pháp cũng sẽ phải đi theo số liệu mới. Bởi vậy, nếu điều chỉnh phải có lý lẽ để đưa ra Quốc hội, không điều chỉnh cũng phải có lý lẽ, ông Kiêm đề nghị.

Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên cho rằng, điều hành của Chính phủ phải bám vào nghị quyết của Quốc hội, nhất là mục tiêu tổng quát của năm 2011. Đồng tình với Phó chủ tịch Nguyễn Đức Kiên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền cũng cho rằng không cần thiết phải đề nghị Quốc hội điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng, lạm phát năm 2011 tại kỳ họp tới đây.

3. Báo Tuổi trẻ Online có bài Bộ GTVT từ chối tham gia với tư cách nguyên đơn dân sự. Bài báo phản ánh: Sáng 27-6, TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án tham nhũng xảy ra tại dự án cầu Bãi Cháy (Quảng Ninh) do Ban quản lý các dự án 18 (PMU18), Bộ Giao thông vận tải làm đại diện chủ đầu tư.

Phiên tòa xét xử 9 bị cáo về tội “tham ô tài sản”. Riêng bị cáo Đỗ Kim Quý (nguyên phó tổng giám đốc PMU18) bị xét xử về tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Trước đó, tại bản cáo trạng lần thứ hai, ông Đỗ Kim Quý bị truy tố về tội “không tố giác tội phạm”.

Trong số các bị cáo bị xét xử lần này, chỉ duy nhất bị cáo Bùi Tiến Dũng đang bị giam do phải chấp hành hình phạt 16 năm tù giam, trong đó 3 năm tù về tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” bị TAND TP Hà Nội tuyên phạt khi xét xử vụ PMU18 giai đoạn 2 và 13 năm tù về các tội “đánh bạc, đưa hối lộ” tại giai đoạn 1 vụ PMU18. Các bị cáo còn lại hầu hết hiện đều trở lại công tác tại đơn vị cũ của mình.

Tại phần thủ tục, HĐXX đã thông báo Bộ GTVT có công văn thông báo đến tòa về việc từ chối tham gia với danh nghĩa nguyên đơn dân sự đại diện cho bị hại. Ngay sau khi HĐXX công bố thông tin này, các luật sư đã đề nghị hoãn phiên tòa vì không có nguyên đơn dân sự, không có bị hại thì không thể xét xử các bị cáo về hành vi tham ô tài sản. Tuy nhiên, HĐXX sau khi hội ý vẫn quyết định tiếp tục xét xử vụ án. Các trường hợp nguyên đơn dân sự, người liên quan, nhân chứng vắng mặt sẽ được triệu tập trong quá trình xử án nếu thấy cần thiết.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa đã công bố cáo trạng vụ án. Bản cáo trạng lần này nêu rõ dự cán cầu Bãi Cháy được phân chia làm 3 gói thầu. Tại các gói thầu được sử dụng nhân viên tư vấn bổ sung và các bị can thuộc nhóm tội tham ô tài sản đã lợi dụng quy định này để tham nhũng.

Cụ thể, theo đơn giá bỏ thầu của các gói thầu BC1, BC3 mỗi gói được sử dụng 14 nhân viên tư vấn bổ sung làm việc ở 11 chức danh trong 28 tháng; gói BC2 được sử dụng 21 nhân viên tư vấn bổ sung làm việc ở 13 chức danh trong 42 tháng. Lương nhân viên tư vấn bổ sung do nhà thầu chi trả, sau đó PMU18 sẽ thanh toán.

Lợi dụng kẽ hở này, Phạm Tiến Dũng (nguyên trưởng phòng PID6, bị can trong vụ án nhưng đã chết) đã gặp Bùi Tiến Dũng xin lập danh sách nhân viên tư vấn bổ sung khống để lấy tiền. Sau đó, Phạm Tiến Dũng thông đồng với các bị cáo lập khống danh sách 8 nhân viên tư vấn bổ sung tại gói BC2 và 18 nhân viên tư vấn bổ sung tại gói BC1, BC3, chiếm đoạt trên 3,4 tỉ đồng tiền lương trong thời gian từ tháng 8-2003 đến tháng 2-2007. Trong đó, các bị cáo đã chiếm dụng gần 1,6 tỉ đồng; số còn lại chi trái nguyên tắc quản lý tài chính của Nhà nước.

Riêng bị cáo Đỗ Kim Quý khi nghỉ hưu được Bùi Tiến Dũng chỉ đạo chi 500 triệu đồng làm quà. Ông Quý biết số tiền này được rút ra từ nguồn vốn dự án nhưng vẫn lấy và sử dụng vào mục đích cá nhân, khi cơ quan điều tra khởi tố mới hoàn trả. Do đó hành vi của ông Quý phạm vào tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Trong buổi sáng, phiên tòa bước vào phần xét hỏi, HĐXX tiến hành thẩm vấn các bị cáo về hành vi phạm tội theo cáo buộc của Viện kiểm sát.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Sài Gòn giải phóng có bài 55,9% văn bản chưa được thẩm định trước khi ban hành. Bài báo đưa tin: Theo báo cáo về tình hình soạn thảo, ban hành và kiểm tra xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn, từ tháng 10-2010 đến đầu tháng 4-2011, HĐND và UBND TPHCM đã ban hành 74 văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, chỉ có 39 văn bản (đạt 54,1%) được Sở Tư pháp thẩm định trước khi ban hành, 55,9% văn bản chưa được thẩm định. Việc kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật này cũng không được các sở ban ngành TP thực hiện nghiêm túc (chỉ đạt 60% sở ngành tự kiểm tra).

2. Báo Nhà báo & Công luận có bài Vụ khóa cổng, đổ cát ở Mê Linh: “Quả bóng” trách nhiệm! Bài báo phản ánh: Với hàng loạt sai phạm trong quá trình thực hiện thủ tục cấp Giấy CNQSD đất nhưng những người có trách nhiệm lại "đá bóng" cho phòng công chứng số 9. Vì sao lại có chuyện ngược đời như vậy?

Vừa qua, báo điện tử Công luận có loạt bài phản ánh về việc cấp Giấy CNQSDĐ cho cụ Lưu Thị Gián ở xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh có nhiều sai phạm nghiêm trọng. Về việc này, Chủ tịch UBND huyện Mê Linh đã chỉ đạo các cơ quan của huyện xem xét, báo cáo và tham mưu cho huyện phương án giải quyết trước ngày 25/5/2011. Thế nhưng, vụ việc vẫn lình xình, mặc dù sai phạm đã rõ…

Chiều 23/6, PV báo điện tử Công luận đã làm việc với đại diện lãnh đạo và một số ban ngành chức năng của huyện Mê Linh gồm các ông Đoàn Văn Trọng, Phó chủ tịch UBND huyện; ông Đinh Ngọc Thức, Phó trưởng phòng TN&MT; ông Nguyễn Đức Phương, Giám đốc Văn phòng đăng ký QSDĐ. Buổi làm việc nhằm làm rõ những vấn đề mà báo điện tử Công luận nêu, gồm: Trường hợp cấp Giấy CNQSDĐ đối với cụ Lưu Thị Gián đúng hay sai? Vì sao trên mảnh đất 1477m2 có 3 hộ sống ổn định từ năm 1990 nhưng “sổ đỏ” lại cấp cho một hộ? Việc công nhận 1204m2 đất ở cho một hộ là căn cứ trên cơ sở pháp lý nào? Tại buổi làm việc này, ông Đoàn Văn Trọng đã khẳng định rằng việc cấp sổ đỏ cho cụ Lưu Thị Gián là đúng. Tuy nhiên, ông Trọng lại không hề giải thích cho PV biết thế nào được gọi là “đúng”. Ông Trọng cho biết, ông mới đảm nhiệm chức Phó chủ tịch UBND huyện, phụ trách đất đai và kinh tế nên mới nghe qua về vụ việc chứ thực tế như thế nào do phòng chuyên môn sẽ báo cáo. Lý giải về cái lý “đúng” của mình, các cán bộ chuyên môn về đất đai của huyện Mê Linh cho rằng, trong Giấy CNQSDĐ có ghi rất rõ ràng: Cấp cho “hộ ông/bà Lưu Thị Gián”. Do đó cần hiểu là Giấy CNQSDĐ được cấp cho cả gia đình chứ không phải chỉ có riêng cá nhân cụ Lưu Thị Gián.

Cả ba ông Đoàn Văn Trọng, Đinh Ngọc Thức, Nguyễn Đức Phương đều cho rằng, sở dĩ có những rắc rối phát sinh là do Phòng công chứng số 9!? Theo họ, đáng lý ra khi chứng thực việc chuyển nhượng đất đai, phòng công chứng phải triệu tập những đồng thừa kế của cụ Gián để ký vào hợp đồng chuyển nhượng… Tuy nhiên, những lý lẽ do đại diện của huyện Mê Linh đưa ra rất thiếu sức thuyết phục.

Thứ nhất, cứ cho rằng việc cấp Giấy CNQSDĐ cho “hộ ông/bà Lưu Thị Gián” và dẫn đến cách hiểu “giấy này được cấp cho cả gia đình cụ Gián” là hợp lý thì vẫn còn một số vấn đề liên quan chưa được làm rõ. Đó là những quy trình, thủ tục để cấp Giấy CNQSDĐ có được cơ quan chức năng thực hiện đúng theo quy định? Cụ thể, những câu hỏi của PV về hồ sơ thửa đất không thể hiện các mốc giới liền kề của các hộ bên cạnh; việc có hay không thông báo công khai, việc cụ Gián khi đó đã quá già yếu, không đủ năng lực hành vi pháp luật, không biết chữ nhưng vẫn có chữ ký rõ ràng, ngay ngắn... Những câu hỏi này đã bị đại diện của huyện Mê Linh lờ đi, không trả lời.

Thứ hai, việc đá trách nhiệm sang Phòng công chứng số 9 chỉ là việc “lập lờ đánh lận con đen”. Bởi lẽ, phòng công chứng không có chức năng thẩm định và cấp Giấy CNQSDĐ mà đó là việc của chính quyền và các cơ quan nhà nước có chức năng tham mưu. Theo luật sư Lương Mạnh Thắng, Đoàn luật sư Hà Nội, phòng công chứng chỉ có chức năng chứng thực việc chuyển quyền sử dụng đất hợp pháp, mà không có trách nhiệm đi xác định nguồn gốc đất thay cơ quan nhà nước. Trong trường hợp này, nếu cơ quan nhà nước làm đúng quy trình, làm hết trách nhiệm thì chắc chắn không thể xảy ra những chuyện rắc rối, tranh chấp về sau.

Thứ ba, ông Đoàn Văn Trọng thừa nhận việc cấp đất ở tới 1204m2 là vượt quá hạn mức quy định của TP Hà Nội. Một Giấy CNQSDĐ được cấp với sự vi phạm pháp luật như vậy thì làm sao có thể gọi là “đúng” được? Chưa nói đến những vi phạm trong quá trình thực hiện quy trình, thủ tục của cơ quan chức năng- chỉ với một “sổ đỏ” có vấn đề như trường hợp này đã là quá đủ lý do để huyện Mê Linh thu hồi Giấy CNQSDĐ cũ để cấp sổ mới; thực thi đúng pháp luật, đúng với hiện trạng sử dụng đất, đồng thời giải quyết được những tranh chấp phát sinh.

Với những sai phạm đã quá rõ ràng như vậy nhưng không hiểu sao việc xử lý của huyện Mê Linh lại quá chậm chạp? Liệu có những tiêu cực xung quanh việc cấp Giấy CNQSDĐ “bất thường” này? Bao giờ Giấy CNQSDĐ vi phạm pháp luật sẽ được thu hồi?

3. Báo Tiền Phong Online có bài Thi hành án xin… bó tay. Bài báo phản ánh: Ngày 17-1-1998, đôi vợ chồng Phạm Ngọc Thảo - Lê Thị Lan mua của ông Nguyễn Bờ một lô đất thổ cư diện tích 500m2 tại thôn 1, xã Cư Ebur, TP Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk) và làm nhà ở cho đến nay. Việc sang nhượng, hai bên có lập thành văn bản theo mẫu chung, được Chủ tịch UBND xã Cư Ebur xác nhận.

Ông Thảo nhiều lần yêu cầu ông Bờ làm thủ tục tách thửa và sang tên đổi chủ, nhưng ông Bờ không chịu. Ông Thảo bà Lan khởi kiện, yêu cầu ông Bờ phải giao bìa đỏ để ông bà làm thủ tục sang tên đổi chủ.

Ngày 8-10-2010, TAND TP Buôn Ma Thuột ra bản án sơ thẩm, tuyên buộc ông Bờ phải giao các giấy tờ liên quan để ông Thảo làm thủ tục tách thửa, chuyển quyền sử dụng đất diện tích 500m2, trong đó có 100m2 đất ở. Ông Bờ kháng cáo, cho rằng buộc ông phải chuyển nhượng cho ông Thảo 100m2 đất ở là không thỏa đáng, vì ông Bờ chỉ được cấp 300m2 đất ở trên toàn bộ diện tích hiện có. Ngày 27-12-2010, TAND tỉnh Đăk Lăk đã ra bản án phúc thẩm, buộc ông Bờ giao các giấy tờ liên quan cho ông Thảo làm thủ tục tách thửa, nhưng không nói rõ phải tách bao nhiêu mét vuông đất ở trong đó, mà chỉ “Kiến nghị UBND TP Buôn Ma Thuột điều chỉnh lại hạn mức đất ở tại Giấy CNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Nguyễn Bờ”.

Nhận đơn trình bày kèm bản án do ông Thảo, ông Bờ gửi đến, UBND TP Buôn Ma Thuột đã ra công văn trả lời rằng, “xét thấy không có cơ sở để giải quyết kiến nghị của Tòa án”. Một cán bộ thi hành án đọc bản án, thở dài ngán ngẩm: “Xử kiểu này, thi hành án xin… bó tay”!

4. Báo Pháp luật Việt Nam phản ánh: Ít ai biết rằng, đối với  việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa, ngoài khó khăn vì đương sự không có tiền, tài sản, nhiều vụ thi hành án còn “dở khóc dở cười” khi tài sản có đấy mà gọi năm lần bảy lượt đương sự “không thèm” nhận.

Không khó khi bắt gặp tại kho của nhiều cơ quan THA những tài sản như xe máy, nồi cơm điện, ti vi, đầu đĩa, điện thoại… và nhiều vật dụng cá nhân khác như đồng hồ, quần áo, giày mũ… bị lưu cữu lâu ngày mà không có ai nhận, mặc dù đã được thông báo nhiều lần.

Có hai nguyên nhân “tài sản tồn kho” được các cơ quan THA chỉ ra là do không xác định được địa chỉ của người nhận và người được THA không đến nhận tài sản. Với nguyên nhân thứ hai - trường hợp đương sự được báo mà không đến nhận chủ yếu rơi vào các tài sản giá trị nhỏ, đương sự ở xa, nếu đến nhận phải mất nhiều thời gian, công sức. Do đó, cách mà người được THA lựa chọn là… bỏ. Nan giải hơn, là những vụ trả lại tài sản cho người được THA đang chấp hành hình phạt tù. Tài sản giá trị nhỏ nhưng theo quy định của Luật THADS, chấp hành viên vẫn phải gửi chúng qua giám thị trại giam, trại tạm giam. “Có khi chi phí cho việc gửi tài sản đến nơi đương sự đang thụ án đã vượt quá giá trị tài sản được nhận”, một chấp hành viên cho biết.

Theo Điều 126 Luật THADS, đối với tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng thì Thủ trưởng cơ quan THADS phải ra quyết định tiêu huỷ và tổ chức tiêu huỷ tài sản theo quy định… Tuy nhiên, đối với nhiều tài sản đương sự không đến nhận, chấp hành viên phải xử lý theo pháp luật nhưng số tiền cũng chả đáng là bao trong khi về nguyên tắc nó không thể bị tiêu hủy do vẫn còn giá trị. Mà nếu xử lý thì chi phí cho việc bán tài sản còn lớn hơn tiền thu về, chưa kể tài sản mang ra nhưng không bán được.

Để tránh tình trạng “một tiền gà, ba tiền thóc”, nên chăng nếu vật chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết các vụ án, các cơ quan có thẩm quyền có thể trả lại cho chủ sở hữu theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự.



File đính kèm