Điểm tin báo chí sáng ngày 20 tháng 4 năm 2011

20/04/2011
Trong buổi sáng ngày 20/4/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 19-4, tại Hà Nội, hội nghị lấy ý kiến về việc xây dựng Luật Giáo dục đại học do Ủy ban Văn hóa Giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội tổ chức.

Nhiều ý kiến khẳng định cần thiết phải ban hành Luật Giáo dục đại học, vì đó là cơ sở cần thiết trong tiến trình hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động giáo dục Việt Nam. GS-TSKH Bành Tiến Long cho rằng, nước ta chưa có Luật Giáo dục đại học, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước và hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Trong khi chúng ta có rất nhiều lợi thế trong cạnh tranh kinh tế, cạnh tranh nguồn nhân lực nhưng giáo dục đại học lại thiếu sự thống nhất và chỉ đạo về quản lý nhà nước; tính tự chủ đại học bị hạn chế làm cho các cơ sở không chủ động phát huy sáng tạo…

GS-TS Trần Hữu Nghị, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường ĐHDL Hải Phòng, thể hiện quan điểm đưa nội dung tự chủ, tự chịu trách nhiệm vào Luật Giáo dục đại học là cần thiết, đó cũng là điều xã hội hiện nay và bản thân các trường luôn mong mỏi. Tuy nhiên, trong dự thảo, Điều 44, khoản 3 đã đề cập đến tự chủ với nội dung: “Cơ sở giáo dục đại học tư thục tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các nguồn thu”. Như vậy là chưa đầy đủ vì mới chỉ giới hạn ở vấn đề hoạt động tài chính của trường tư thục.

GS-TS Trần Hữu Nghị cho rằng, cần đưa vào luật những nội dung cụ thể hơn như tự chủ, tự quyết trong công tác quản trị nhà trường; tự chủ, tự quyết trong công tác tài chính, trong việc ban hành các quyết định liên quan đến nhân sự, chương trình đào tạo, công tác đánh giá và cấp bằng cấp cho sinh viên. Theo GS-TSKH Bành Tiến Long, nội dung tự chủ, tự chịu trách nhiệm thể hiện thông qua quy chế tổ chức và hoạt động của trường. Hội đồng trường là tổ chức quyền lực cao nhất chịu trách nhiệm về quyền này.

Báo cũng phản ánh: Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH), HĐND các cấp đã được chuẩn bị, lựa chọn hết sức chu đáo, chính xác và bảo đảm chất lượng cao. Tới đây việc chuẩn bị bầu cử sẽ đẩy mạnh công tác giám sát để phát hiện những sai sót. Đó là khẳng định của Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban MTTQ Việt Nam, Ủy viên Hội đồng bầu cử Trung ương Vũ Trọng Kim trong cuộc trao đổi với PV Báo SGGP.

- Điểm nổi bật nhất trong công tác chuẩn bị bầu cử kỳ này là gì, thưa ông?

Kỳ này giảm rõ rệt so với kỳ trước về đơn thư tố cáo. Nguyên nhân do danh sách ứng cử viên đã được chuẩn bị chu đáo, xác minh rõ ràng. Mặt khác do khá nhiều ứng cử viên đã được xác minh, sàng lọc tại kỳ Đại hội Đảng. Duy nhất một đơn thư khiếu nại về ứng cử viên nhưng cũng chỉ liên quan đến vấn đề sinh hoạt.

- Công tác bầu cử tới đây sẽ tập trung vào việc gì?

Vừa qua, chúng tôi đã cử mấy chục đoàn đi giám sát công tác bầu cử. Chỉ còn hơn 10 địa phương chưa được giám sát, tới đây sẽ tiếp tục giám sát để bảo đảm quá trình bầu cử diễn ra đúng pháp luật. Hiện vẫn còn rất nhiều việc quan trọng. Mặt trận tiếp tục chú ý hơn nữa công tác tuyên truyền vận động trong nhân dân để bà con ở mọi miền đất nước thấy được ý nghĩa của việc bầu cử, tham gia thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Công tác vận động bầu cử, nhất là ở vùng sâu vùng xa phải đến từng nhà cử tri. Bên cạnh đó, phải tập trung giải quyết dứt điểm các đơn tố cáo trả lời cho công dân trước ngày bầu cử. Việc niêm yết danh sách cử tri phải chặt chẽ, đầy đủ nhằm đảm bảo quyền của mọi công dân trong bầu cử. Phải bảo đảm tuyệt đối an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trước, trong và sau ngày bầu cử.

2. Báo Thanh niên phản ánh: Công ty Cho thuê Tài chính 2 (ALC2) đang là con nợ của nhiều tổ chức, trong đó có BHXH Việt Nam với khoản vay thể hiện trên 14 hợp đồng, trị giá 1.010 tỉ đồng. Món nợ này, bà Đỗ Thị Xuân Phương - Phó tổng giám đốc BHXH Việt Nam cho biết, ALC2 đã thanh toán 200 tỉ đồng, và hứa tháng 4, hoặc chậm nhất tháng 5 năm nay sẽ trả thêm 200 tỉ đồng sau khi thanh lý tài sản. Riêng số còn lại 610 tỉ đồng, chưa ai dám khẳng định có đòi được hay không vì ALC2 đã nằm trên bờ vực phá sản, trong khi “công ty mẹ” Agribank trước đó đã âm thầm hạ hạn mức bảo lãnh. 

Cụ thể, năm 2003 Agribank - BHXH Việt Nam cùng nhau ký bản thỏa thuận với nội dung Agribank cam kết bảo lãnh cho các khoản vay của các công ty thành viên, trong đó riêng ALC2 có hạn mức trần 1.300 tỉ đồng (nếu ALC2 không trả được, Agribank trả nợ thay). Để hiện thực hóa thỏa thuận trên, năm 2008, Agribank phát hành 3 thư bảo lãnh: Thư thứ nhất vào ngày 13.3 trị giá 500 tỉ đồng, thư thứ 2 vào ngày 22.4 trị giá 800 tỉ đồng và thư thứ 3 ngày 20.10 là 400 tỉ đồng. Nhưng trong thư bảo lãnh thứ 3, Agribank lại kết: “Thư này thay thế cho 2 bức thư đã phát hành trước đó”. Có thể hiểu, Agribank đã rút hạn mức bảo lãnh từ 1.300 tỉ xuống chỉ còn 400 tỉ đồng.

Tuy nhiên, vấn đề là, vì sao vào thời điểm 2008, khi nhận bức thư khó hiểu ấy BHXH không phản hồi và đòi ngồi lại bàn đàm phán với Agribank? Một lãnh đạo của BHXH, giãi bày không thể làm như vậy do thư bị thất lạc, nằm trong đống công văn lưu, do sự thiếu trách nhiệm của một cán bộ lưu trữ. Khi thư đến, cán bộ lưu trữ đã không báo cáo cấp trên và mãi đến tháng 7.2010, khi BHXH đã giải ngân hết 1.010 tỉ đồng cho ALC2 thì … bức thư mới được tìm thấy. Đến đây, một lần nữa người ta lại phải đặt câu hỏi: Vậy tại sao lúc đó BHXH không yêu cầu Agribank ngồi lại đàm phán mà phải đợi đến khi ALC2 bị công khai thua lỗ mới “tá hỏa” đi giải thích, và đổ vấy cho Agribank? Rõ ràng, sự việc trên đã cho thấy cả Agribank và BHXH Việt Nam tỏ ra thiếu trách nhiệm đối với việc sử dụng, bảo toàn đồng vốn ngân sách nhà nước. Bức thư bảo lãnh với số tiền liên quan lên tới 1.300 tỉ đồng, mà một bên thì tự ý quyết; trong khi bên kia lại để thất lạc trong đống công văn lưu trữ là những lý do mà một người cả tin nhất cũng khó có thể chấp nhận.

Báo cũng phản ánh: Sáng 19.4, HĐND TP.HCM đã khai mạc kỳ họp thứ 20, cũng là kỳ họp cuối của khóa VII (2005-2011). HĐND TP.HCM đã thông qua mức tăng phí qua cầu Bình Triệu 2, xa lộ Hà Nội và Kinh Dương Vương theo như tờ trình của UBND TP. Thời gian áp dụng mức thu mới bắt đầu từ ngày 1.7.2011.

Trong khi tham gia thảo luận nhóm trước đó, nhiều đại biểu HĐND TP.HCM dù đồng ý với chủ trương tăng mức thu phí giao thông đường bộ nhưng đều tỏ ra lo lắng việc tăng phí trong thời điểm hiện tại có thể tạo áp lực lên giá cả. ĐB Ngô Minh Hồng có ý kiến khoan tăng phí qua các trạm thu phí trong giai đoạn giá cả leo thang mà có thể chọn phương án đàm phán với nhà đầu tư kéo dài thời gian thu phí, bù lỗ cho nhà đầu tư. ĐB Phạm Xuân Ái cũng bày tỏ lo ngại hiện chi phí sản xuất của doanh nghiệp quá nặng, nặng nhất là chi phí GTVT.

Trả lời phỏng vấn báo chí sau buổi họp, bà Phạm Phương Thảo, Chủ tịch HĐND TP.HCM cho rằng, mức phí đường bộ mới đối với xe cộ lưu thông qua cầu Bình Triệu 2, xa lộ Hà Nội và Kinh Dương Vương bằng với mặt bằng chung về mức thu phí của các tỉnh lân cận. Với việc thông qua mức phí này, thời gian thu phí sẽ rút ngắn lại, các khoản thu và nguồn vốn của TP sẽ được dành cho đầu tư và tái đầu tư các công trình, dự án khác.

Báo cũng phản ánh: Văn phòng Chính phủ vừa có công văn truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc với đề nghị của Bộ Kế hoạch - Đầu tư ở nội dung sửa đổi, bổ sung Nghị định số 131/2006 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).

Nghị định sửa đổi, bổ sung sẽ mở rộng phạm vi điều chỉnh bao gồm quản lý sử dụng vốn ODA và các nguồn vốn vay kém ưu đãi khác; đơn giản hóa, đồng bộ các thủ tục liên quan đến ODA và các nguồn vốn vay kém ưu đãi khác cho phù hợp với yêu cầu mới và các quy định hiện hành của pháp luật. Đặc biệt, sẽ xây dựng cơ chế cho phép doanh nghiệp tư nhân tiếp cận vốn vay ODA và các khoản vay khác của các nhà tài trợ nhằm thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên của Chính phủ trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm, lợi ích và rủi ro cùng với Chính phủ trong việc sử dụng nguồn vốn này. Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về ODA, các bộ, ngành, địa phương và các nhà tài trợ dự thảo Nghị định sửa đổi, trình Thủ tướng ban hành trong quý 4/2011.

Báo cũng phản ánh: Theo nguồn tin của Thanh Niên, qua rà soát dự án (DA) đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước năm 2011, Bộ Xây dựng có 5 dự án khởi công mới trong năm 2011 với tổng vốn hơn 55 tỉ đồng, gồm: cơ sở hạ tầng Khu Đoàn ngoại giao với tổng vốn 25 tỉ đồng; Trung tâm Nghiên cứu vật liệu xây dựng mới, nằm trong Khu công nghệ cao TP.HCM, tổng vốn 12 tỉ đồng; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường Cao đẳng Xây dựng miền Tây giai đoạn 1, vốn bố trí 2011 là 8 tỉ đồng; nhà học đa năng - trường Trung cấp Xây dựng số 4, vốn gần 5,5 tỉ đồng; dự án Khối lớp học - giảng đường trường Đại học Kinh tế TP.HCM 5 tỉ đồng.

Bộ Xây dựng kiến nghị Bộ Kế hoạch - Đầu tư báo cáo Chính phủ, xin được tiếp tục triển khai với lý do những DA trên đều có đặc thù riêng, như tăng cường cơ sở vật chất để trường Cao đẳng Xây dựng miền Tây lên đại học, dự án nghiên cứu vật liệu xây dựng công nghệ cao để tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường...

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nghiên cứu khoa học góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Bài báo phản ánh: Suốt 10 năm qua, Bộ Tư pháp đã tham gia và tổ chức triển khai hàng trăm đề tài, nhiệm vụ khoa học, phục vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Để nhìn lại kết quả hoạt động của cả giai đoạn, sáng 19/4, Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) tổ chức Hội thảo “Đánh giá hiệu quả nghiên cứu của ngành Tư pháp liên quan đến lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn 2000 - 2010”.

Theo đánh giá của Viện, kết quả các nghiên cứu này đã và đang góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập trong điều kiện toàn cầu hóa, nhất là hội nhập khu vực về pháp luật và tư pháp, nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong việc đại diện cho Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, giải quyết các tranh chấp trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng sự phối kết hợp giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học và các cơ sở đào tạo trong việc triển khai nghiên cứu những vấn đề khoa học pháp lý vẫn còn hạn chế. Việc phối hợp giữa các cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức tư v ấn, dịch vụ pháp lý còn ít, thiếu thường xuyên và mới chỉ dừng lại ở hình thức thí điểm.

Vì thế, mặc dù nhu cầu về khoa học pháp lý trong các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, đến pháp luật thương mại quốc tế trong cộng đồng doanh nghiệp rất lớn nhưng khoa học pháp lý cũng chưa thể đáp ứng được một cách thật hiệu quả.

2. Thời báo kinh tế Sài Gòn online có bài Luật Quảng cáo: không rõ mục tiêu. Bài báo phản ánh: Mục tiêu cuối cùng của Dự luật Quảng cáo là nhằm kiểm soát sự phát triển hoạt động quảng cáo đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp muốn đẩy mạnh truyền thông về sản phẩm, dịch vụ của mình và các nội dung tuyên truyền khác của Nhà nước và của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Với mục tiêu đó, phần lớn nội dung dự thảo luật phải đáp ứng được nhu cầu thực tế trong cuộc sống. Các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo cũng phải nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quảng cáo, dù với mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, vẫn bảo đảm tính văn hóa, giáo dục, trật tự và an toàn xã hội.

Xét theo tiêu chí đó, dự thảo luật đang được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch lấy ý kiến rộng rãi trong cả nước, dự kiến trình Chính phủ vào tháng 4-2011, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu này. Ngay cả khái niệm về quảng cáo trong dự thảo luật cũng chưa thể hiện đúng bản chất của hoạt động quảng cáo. Theo dự thảo thì quảng cáo chỉ là việc giới thiệu đến công chúng về cơ quan, doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ (bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và không sinh lời). Khái niệm này chưa làm rõ việc giới thiệu bằng phương tiện quảng cáo và dưới các hình thức quảng cáo, nên chưa thể hiện hết tính bao quát, chính xác về bản chất của hoạt động quảng cáo, chưa phân biệt quảng cáo với thông tin khuyến mãi.

Mặt khác, quy định như vậy không thống nhất với Luật Thương mại, theo đó quảng cáo là một hoạt động thương mại sinh lợi. Quy định như vậy cũng chưa phân biệt rõ quảng cáo có mục đích sinh lợi (quảng cáo thương mại) và hoạt động tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hay vì mục đích nhân đạo (không sinh lợi).

Trong khi chưa làm rõ được mục tiêu, yêu cầu, nội hàm của các chính sách nêu trên thì dự thảo luật lại đưa ra các quy định quá cụ thể nhằm hạn chế quảng cáo nhưng chưa bảo đảm tính khả thi. Ví dụ như báo nói, báo hình được quảng cáo không quá 7% tổng thời lượng chương trình của một ngày phát sóng; các chương trình cấm hoặc hạn chế quảng cáo; chỉ được quảng cáo 20% diện tích đối với các ấn phẩm theo quy định của Luật Xuất bản; quảng cáo chỉ được đặt bên trái hoặc bên phải khuôn hình quảng cáo; chiều cao của sản phẩm quảng cáo không được vượt quá 0,5 mét... Hơn nữa, các quy định chi tiết như vậy là cứng nhắc vì sẽ khó thay đổi linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế.

Vì chưa rõ mục tiêu của chính sách, nên các quy định của dự thảo được coi là để đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo như cấp phép, quy hoạch, mà chưa đạt được yêu cầu là quản lý sao cho hiệu quả đối với cả Nhà nước, xã hội và doanh nghiệp. Đặc biệt, luật cần quy định tạo thuận lợi cho người quảng cáo có quyền lựa chọn các hình thức, các phương tiện quảng cáo để thể hiện ý tưởng quảng cáo một cách hiệu quả nhất, phù hợp với chiến lược kinh doanh và phát triển thương hiệu của mình. Dư luận xã hội thì mong muốn các cơ quan quản lý chặt chẽ để quảng cáo không ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, chuẩn mực đạo đức và sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Cũng vì xác định mục tiêu không rõ ràng nên dự thảo luật quy định rất sơ sài về quy hoạch quảng cáo: chỉ có hai điều về nội dung quy hoạch quảng cáo và trách nhiệm xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch quảng cáo. Với quy định này, dự thảo luật không làm rõ được nội dung, phạm vi và thẩm quyền quy hoạch quảng cáo. Nếu không có quy hoạch thì dễ dẫn đến sự tùy tiện trong quản lý và thực thi chính sách.

3. Báo địa ốc online có bài Chuẩn bị sửa đổi Luật Đất đai năm 2003. Bài báo phản ánh: Ngày 18-4, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Phạm Khôi Nguyên đã chủ trì cuộc họp với Tổng cục Quản lý đất đai nhằm tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2003 và định hướng sửa đổi luật.

Theo Tổng cục Quản lý đất đai, 3 nhóm vấn đề được nêu ra trong đánh giá tác động của chính sách pháp luật đất đai đến sự phát triển KT-XH được trình bày trong Báo cáo dự thảo tổng kết thi hành Luật Đất đai 2003 gồm: đánh giá đối với phát triển nông nghiệp nông thôn; đối với phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp, đô thị và dịch vụ; đối với phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản. Ngoài ra, hàng loạt nội dung quan trọng khác cũng cần được nghiên cứu, chỉnh sửa. Đó là việc thực hiện các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai như quy hoạch kế hoạch sử dụng đất; giao đất cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất…

Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên cho rằng, sau khi đánh giá thực trạng và nêu những vướng mắc bất cập cho mỗi nhóm vấn đề này, cần làm rõ việc sửa đổi Luật sẽ mang lại những lợi ích cụ thể thế nào; giải pháp nhằm bám sát mục tiêu kinh tế hóa đất đai và giải quyết tình trạng tham nhũng đất đai ra sao? Đặc biệt phải công khai minh bạch giá đất và nên coi đây là gốc của nhiều vấn đề từ đó mới xóa bỏ được cơ chế xin cho. Tuy không chia lại đất đai nhưng sẽ điều chỉnh bằng cơ chế kinh tế. Vấn đề tài chính đất, giá đất phải giao cho Bộ TN&MT quản lý nhà nước. Tính hiệu quả sử dụng đất phải quản lý chặt từ Trung ương tới địa phương, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất cũng phải làm rõ, chỉ có cấp nào phê duyệt quy hoạch mới được quyền điều chỉnh quy hoạch…