I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Chính phủ có bài Sớm hoàn thiện dự thảo Nghị định tổ chức các ngày kỷ niệm. Bài báo đưa tin: dự thảo "Nghị định quy định tổ chức các ngày kỷ niệm; nghi thức trao tặng và đón nhận các hình thức khen thưởng cấp nhà nước; nghi lễ nhà nước và đón tiếp khách nước ngoài" sẽ được hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 7/2011.
Theo thông tin từ Bộ VHTTDL, dự thảo này được xây dựng có khoảng 12 chương trong đó có nhiều nội dung mới. Dự thảo dự kiến bổ sung ngày Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7/5/1954 vào danh mục các ngày kỷ niệm trong năm bởi ý nghĩa to lớn của sự kiện này đối với quá trình giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
2. Báo VnExpress có bài Người VN sẽ được uống thuốc dự phòng nhiễm xạ nếu có nguy cơ. Bài báo đưa tin: Nếu phóng xạ trong môi trường ở mức độ nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe thì người dân sẽ được uống viên iốt để giảm thiểu nguy cơ nhiễm xạ, đây là nội dung trong kế hoạch ứng phó với sự cố hạt nhân tại Nhật Bản do Bộ Y tế Việt Nam xây dựng.
3. Báo GiadinhNet có bài Chung cư tư nhân: “Lơ lửng” chủ quyền. Bài báo phản ánh: trong khi hàng loạt dự án nhà chung cư tư nhân (CCTN) được ồ ạt tung ra, các nhà đầu tư vẫn đua nhau "lướt sóng", thì có một tồn tại mà dường như ai cũng muốn lảng tránh, đó là vấn đề "chủ quyền". Theo quy định, các căn hộ CCTN hợp pháp sẽ được cấp giấy chủ quyền, nhưng thực tế lại khác rất nhiều.
Không khó hiểu với sự thờ ơ về "chủ quyền" của người mua CCTN. Thứ nhất, chuyện sở hữu nhà, đất không có giấy tờ vốn rất phổ biến ở nước ta, nó đã thành một thói quen. Thứ hai, nhiều người cho biết, họ có lo nhưng không "sốt sắng" vì dù sao nhà cũng là nhà của mình, không ai có thể tranh chấp, tất cả mọi người đều không có giấy chứng nhận chứ không riêng mình... Còn về phía chủ đầu tư, họ cũng có lý do để thờ ơ với việc làm giấy tờ sở hữu cho từng căn hộ, vì dù gì thì nhà cũng đã bán, tiền cũng đã thu về.
Theo quy định, "hộ gia đình, cá nhân chỉ được bán, cho thuê các căn hộ này sau khi đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với các căn hộ đó". Tuy nhiên, thực tế, các căn hộ CCTN vẫn được bán "lách luật" bằng các văn bản thoả thuận hay hợp đồng góp vốn.
Ở một khía cạnh khác, chủ đầu tư có lẽ cũng muốn làm giấy tờ chủ quyền cho các căn hộ một cách đằng thẳng. Khi đó, việc mua bán của họ sẽ được minh bạch, khỏi phải lách cách này, cách khác. Vậy điều gì đã cản trở họ? Đây lại là một phần của câu chuyện giấy chứng nhận sở hữu nhà và sử dụng đất hay còn gọi là "sổ đỏ - sổ hồng" tồn tại nhiều năm nay. Nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT Đặng Hùng Võ cho rằng: ""Sổ đỏ - sổ hồng" đáng ra phải được cấp như Giấy khai sinh".
Nhưng thực tế có một sự khác biệt lớn. Hiện nay, chi phí toàn bộ để có một giấy khai sinh là 10.000 đồng và 5 ngày. Còn chi phí để có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất, thật khó tính được. Hiện nay, chúng ta có quy định: phải làm giấy khai sinh cho em bé trong vòng 60 ngày kể từ ngày sinh. Nếu chậm sẽ bị phạt. Vậy tại sao chúng ta lại để chủ quyền của các tài sản bất động sản như nhà, đất treo lơ lửng? Trong khi sự treo lơ lửng này không chỉ gây khó dễ cho người dân mà còn khó khăn cho công tác quản lý của nhà nước, đặc biệt là các khoản thuế bị thất thu.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Quên nghĩ đến dân. Bài báo phản ánh: Đúng như nhiều người đã lo ngại, việc hoán đổi ngày làm việc từ thứ Hai sang thứ Bảy nhân dịp giỗ tổ Hùng Vương năm nay để cán bộ, công chức được nghỉ liên tiếp ba ngày (từ ngày 10 đến 12-4) đã gây ra nhiều tình huống không hay.
Thông thường, vào ngày cuối tuần chỉ có ít khách đến vào buổi sáng và không loại trừ khả năng có nơi không có ai lui tới vào buổi chiều. Chưa kể, người dân có thói quen sắp xếp việc nhà việc cửa để đi làm giấy tờ vào đầu tuần cho sớm sủa. Lại nữa, không phải người dân nào cũng theo dõi báo đài để biết được thông tin hoán đổi nêu trên. Chính vì thế mà đã nảy sinh một nghịch lý trong những ngày qua: Trong ngày thứ Bảy, cả bộ máy nhà nước được huy động để… chờ dân thì trong ngày thứ Hai, người dân lại… ngóng chờ cán bộ.
Lâu nay, dù một số cơ quan nhà nước có làm việc vào sáng thứ Bảy hằng tuần nhưng nơi có đông người đến giao dịch nhất cũng chỉ bằng 15%-20% so với ngày thường. Vì lý do này mà quy định làm việc sáng thứ Bảy chỉ được áp dụng cho một số cơ quan có nhiệm vụ giải quyết các thủ tục sát sườn với dân như công chứng, chứng thực, hộ tịch, cấp phép xây dựng… Và cũng vì tính hiệu quả không cao mà đã có nhiều ý kiến đề nghị xem lại quy định làm việc sáng thứ Bảy. Nói vậy để thấy rằng việc Nhà nước cho cán bộ, công chức nghỉ thứ Hai và bù lại cho dân bằng một ngày làm việc vào thứ Bảy xem chừng không thỏa đáng, nếu không nói là không sòng phẳng khi chỉ tính cái tiện cho cán bộ mà quên tính tới những phiền hà dắt dây mà người dân phải chịu.
Hoạt động hành chính ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều cần sự ổn định và những kỷ luật nghiêm minh để tất cả mọi người phải tuân thủ, nhất là cán bộ, công chức. Những quyết định làm thay đổi ngày giờ làm việc càng phải tuyệt đối tránh nếu không thật sự có lý do chính đáng. Bởi lẽ, trong một nền hành chính phục vụ, quyền và lợi ích của người dân nên được tính là ưu tiên số một.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Chính phủ đưa tin Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc việc tiếp nhận Dự án "Hỗ trợ thi hành pháp luật về hội nhập kinh tế" do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ với tổng kính phí tài trợ không hoàn lại dự kiến là 11,74 triệu USD; thời gian thực hiện từ năm 2011 - 2013.
Bộ Tư pháp là đơn vị tiếp thu ý kiến các Bộ, cơ quan hoàn chỉnh nội dung và phê duyệt văn kiện dự án; đồng thời, chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan tổ chức triển khai Dự án theo quy định, trong đó ưu tiên cho mục tiêu đào tạo nâng cao trình độ cán bộ pháp luật.
Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đồng ý việc thành lập Ban Chỉ đạo (BCĐ) dự án gồm: Lãnh đạo Bộ Tư pháp là Trưởng BCĐ, Lãnh đạo Văn phòng Chính phủ là Phó Trưởng Ban và đại diện các Bộ, cơ quan: Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngoại giao, Công an, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu trong quá trình triển khai tùy theo yêu cầu hợp tác thực tế, Bộ Tư pháp có thể mời thêm một số Bộ, cơ quan có liên quan tham gia BCĐ và thành lập Ban Quản lý dự án để giúp việc cho BCĐ.
Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải gửi công hàm thông báo với phía Hoa Kỳ về việc phê duyệt văn kiện dự án và cho phép triển khai. Các Bộ, cơ quan tham gia dự án cần căn cứ vào nội dung được phép hợp tác để xây dựng kế hoạch, cân đối vốn đối ứng hàng năm.
2. Báo Lao động có bài Chi cụ Thi hành án dân sự quận Thủ Đức (TPHCM) hành xử trái pháp luật: Hàng trăm công nhân mất trắng quyền lợi. Bài báo phản ánh: Cơ quan BHXH TPHCM vừa nhận được công văn của BHXH quận Thủ Đức, báo cáo về nguy cơ mất hơn 246 triệu đồng tiền nợ BHXH của Cty TNHH Phú Quang, khiến CN của Cty này mất trắng quyền lợi. Hậu quả trên có nguyên nhân từ việc làm trái pháp luật của Chi cục Thi hành án (THA) dân sự Q.Thủ Đức.
Nguyên, Cty Phú Quang (trước chuyên gia công thú nhồi bông ở P.Trường Thọ, Q.Thủ Đức) bị BHXH Q.Thủ Đức khởi kiện vì nợ BHXH kéo dài. Căn cứ biên bản hoà giải thành, TAND Q.Thủ Đức đã ra quyết định (QĐ) buộc Cty phải trả số nợ 258 triệu đồng hạn chót là ngày 15.11.2009. Thế nhưng sau đó Cty Phú Quang bội tín, nên 10 ngày sau (tức 25.11.2009), BHXH Q.Thủ Đức gửi đơn yêu cầu THA kèm theo bản liệt kê tài sản của Cty Phú Quang để bảo đảm thi hành án.
Đến ngày 30.11.2009, Chi cục THA dân sự Q.Thủ Đức đã ra quyết định THA theo yêu cầu của BHXH Q.Thủ Đức, nội dung như sau: “Kể từ ngày BHXH Q.Thủ Đức có đơn yêu cầu THA, nếu Cty Phú Quang chưa nộp đủ số tiền trên (258 triệu đồng), thì hằng tháng Cty còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng số tiền và thời gian chưa THA”. Đầu tháng 1.2010, Chi cục THA dân sự Q.Thủ Đức có tổ chức cưỡng chế để buộc Cty Phú Quang trích 12 triệu đồng trong tài khoản của Cty tại Ngân hàng Đông Á (DAB) chi nhánh Q.10 trả cho BHXH Q.Thủ Đức. Sau khi cấn trừ, số tiền Cty Phú Quang còn nợ BHXH Q.Thủ Đức hơn 246 triệu đồng (chưa kể số nợ phát sinh thêm trên 180 triệu đồng sau khi có QĐ của toà án).
Như vậy, lẽ ra Chi cục THA dân sự Q.Thủ Đức phải tiến hành xác minh ngay số tài sản của Cty Phú Quang để thực hiện THA cùng lúc cho BHXH Q.Thủ Đức, nhưng không! Mãi 3 tháng sau (tức 16.4.2010), Chi cục THA dân sự Q.Thủ Đức mới tiếp tục xác minh tài sản của Cty Phú Quang, thì toàn bộ số máy may, máy viền nón, máy thêu, xe khách 12 chỗ ngồi... đã được Cty này mang thế chấp cho DAB Q.10 từ tháng 1.2010 để vay tiền. Tóm lại, chỉ vì sự tắc trách của Chi cục THA dân sự Q.Thủ Đức, mà Cty Phú Quang đã tẩu tán trót lọt số tài sản phải THA đối với BHXH Q.Thủ Đức một cách hết sức hợp pháp!
Khi đã phát hiện số tài sản của Cty Phú Quang được thế chấp tại DAB Q.10, thay vì phải định giá xem giá trị tài sản đó sau khi trừ đi số tiền vay DAB Q.10 có còn dư để trả nợ cho BHXH Q.Thủ Đức, thì THA dân sự Thủ Đức lại giao toàn bộ số tài sản đó cho DAB Q.10 trông coi, bảo quản, đồng thời trả lại đơn yêu cầu THA cho BHXH Q.Thủ Đức và kết luận: “Cty Phú Quang không có tài sản để THA”.
Theo Phó Giám đốc BHXH Q.Thủ Đức Hồ Khả Nhân: Điều 90 Luật THA dân sự quy định: “Trường hợp người phải THA không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để THA, chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải THA đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế THA”. Chi cục THA dân sự Q.Thủ Đức trả lại đơn yêu cầu THA và giao tài sản cho DAB Q.10 là hành xử trái pháp luật. Theo đó, Cơ quan BHXH Q.Thủ Đức lập tức có đơn khiếu nại. Để né tránh vụ này, Chi cục THA dân sự quận Thủ Đức bèn đẩy trách nhiệm cho Cục THA dân sự TPHCM giải quyết.
Tiếp nhận vụ việc trên, Cục trưởng Cục THA dân sự TPHCM đã khẳng định: “Việc THA dân sự Q.Thủ Đức kết luận Cty Phú Quang không có tài sản để THA là thiếu căn cứ và quyết định trả lại đơn yêu cầu THA của BHXH quận Thủ Đức với lý do người phải THA không có tài sản để THA là chưa phù hợp”. Theo đó, Cục trưởng Cục THA dân sự TPHCM đã ra QĐ hủy bỏ QĐ của Chi cục THA dân sự Q.Thủ Đức về việc trả lại đơn yêu cầu THA của BHXH Q.Thủ Đức.
Được biết, Cty Phú Quang nợ DAB Q.10 tổng cộng gần 440 triệu đồng và hơn 13.800USD; DAB Q.10 đã bán một số tài sản của Cty Phú Quang để thu hồi 305 triệu đồng; hiện Cty Phú Quang còn nợ DAB Q.10 gần 135 triệu đồng và hơn 13.800USD, trong khi số tài sản thế chấp chỉ còn 4 quạt công nghiệp, 1 máy nén khí và 8 máy công cụ, không đủ trả nốt số nợ. Việc này đồng nghĩa với việc BHXH Q.Thủ Đức không thể thu hồi 246 triệu đồng, hậu quả hàng trăm CN mất trắng quyền lợi về BHXH.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cơ quan thi hành án chưa làm hết trách nhiệm? Bài báo phản ánh: Năm 2010, TAND huyện Tân Thạnh (Long An) xét xử vụ án hình sự, tuyên buộc người bị hại phải nộp 700.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Theo tòa, người bị hại đã yêu cầu bị cáo bồi thường một số tài sản bị mất nhưng không chứng minh được số tài sản này là có thật. Do đó, người bị hại phải nộp án phí dân sự tương ứng với tỉ lệ giá trị tài sản đã yêu cầu nhưng bị tòa bác. Sau khi tòa án xử sơ thẩm, bị cáo làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đồng thời, bị cáo nộp 2 triệu đồng khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại tại cơ quan thi hành án huyện Tân Thạnh. Người bị hại cũng nộp 200.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm để kháng cáo bản án sơ thẩm.
Cuối năm 2010, TAND tỉnh Long An đã giữ nguyên hình phạt hai năm tù đối với bị cáo. Sửa một phần bản án sơ thẩm về án phí vì tòa án cấp sơ thẩm buộc người bị hại nộp án phí phần bị bác yêu cầu là không đúng với quy định của pháp luật...
Sau đó, người bị hại đã đến cơ quan thi hành án huyện Tân Thạnh để yêu cầu thi hành án, đề nghị được nhận lại 2 triệu đồng mà bị cáo khắc phục hậu quả và 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Tuy nhiên, chi cục trưởng Chi cục Thi hành án huyện Tân Thạnh đã từ chối nhận đơn của người bị hại vì cho rằng nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung của bản án.
Về vấn đề này, nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng, bản án phúc thẩm vẫn chưa làm rõ 2 triệu đồng mà bị cáo nộp là để khắc phục hậu quả cho người bị hại hay khắc phục hậu quả cho cơ quan thi hành án. Trong trường hợp cơ quan thi hành án nhận thấy bản án không tuyên rõ phần 2 triệu đồng khắc phục hậu quả thì cần phải làm công văn đến tòa để hỏi hoặc hướng dẫn cho người dân trực tiếp đi hỏi. Nếu cơ quan này cho rằng nội dung yêu cầu không liên quan đến bản án nên không nhận đơn của dân là không làm hết trách nhiệm. Ngoài ra, tòa đã tuyên người bị hại không phải chịu án phí thì cơ quan thi hành án phải trả lại cho người bị hại 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà người này đã nộp.
4. Báo Tin tức Online có bài Chưa có cơ chế kiểm soát rõ ràng hoá đơn tự in. Bài báo phản ánh: Nghị định 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2011 Quy định về hoá đơn (HĐ) bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được xem là một cải cách quan trọng tạo thuận lợi cho người nộp thuế, thế nhưng, Nghị định có hiệu lực gần 3 tháng song cơ chế kiểm soát vẫn chưa rõ ràng…
Luật DN 2005 quy định thủ tục thành lập DN đơn giản và thông thoáng hơn. Tuy nhiên, mặt trái của sự thông thoáng chính là DN “ma” xuất hiện ngày càng nhiều và sử dụng nhiều thủ đoạn rất tinh vi, phương hại đến an toàn kinh doanh của cộng đồng DN.
Thủ đoạn của DN “ma” chủ yếu là dùng hồ sơ giả lập DN để mua bán HĐ trái phép, xuất HĐ khống nhằm thu lợi, không thực hiện báo cáo thuế và sau một thời gian ngắn thì ngưng hoạt động, biến mất, gây thất thu ngân sách hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm. Khi quyền in và phát hành HĐ được trao cho DN, nguy cơ DN “ma” bùng phát và trục lợi từ HĐ tự in là không thể tránh khỏi.
Mặt khác, theo Nghị định 51/2010/NĐ-CP, điều kiện, thủ tục in HĐ khá dễ dàng. Theo quy định tại Điều 6 của Nghị định, chỉ một số DN hội đủ điều kiện mới được tự in HĐ. Tuy nhiên, thủ tục để phát hành HĐ tự in khá đơn giản, DN chỉ cần ra quyết định tự in và lập tờ “Thông báo phát hành HĐ” theo đúng nội dung quy định, kèm theo tờ “HĐ mẫu” gửi đến CQT nơi DN đóng trụ sở chính, đồng thời niêm yết thông báo phát hành tại DN là có thể sử dụng (Điều 11).
“Quy định quản lý thông thoáng như trên nên sẽ có những DN tự nhận mình có đủ điều kiện tự in HĐ và phát hành HĐ tự in. Đáng lo nhất là DN “ma” có thể lợi dụng sự thông thoáng này để phát hành HĐ tự in, kiếm thu nhập bất chính, sau đó bỏ trốn. DN làm ăn nghiêm túc nào bị nhận loại HĐ kể trên sẽ phải chịu thiệt thòi..”- Luật sư Chuyền lên tiếng.
Theo quy định tại Nghị định 51/2010/NĐ-CP, DN sử dụng HĐ tự in chỉ phải báo cáo tình hình sử dụng HĐ cho CQT theo định kỳ hàng quý, tức là DN có lập thông báo phát hành HĐ thì phải 3 tháng sau mới phải báo cáo CQT về tình hình sử dụng HĐ tự in của mình. Như vậy, ít nhất là sau 3 tháng kể từ khi phát hành HĐ, nếu CQT nhận thấy báo cáo đó không hợp lý, nghi ngờ gian lận thì mới thực hiện việc kiểm soát sử dụng HĐ tự in của DN.
Nói cách khác, nếu một DN thành lập trong vòng 2 - 3 tháng rồi tự ngừng hoạt động sau khi đã “đánh quả” thì CQT đành bất lực. (!?)
Mặt khác, trong trường hợp DN A hoạt động tốt, có uy tín với khách hàng. DN khác in HĐ giả lấy danh nghĩa của DN A để xuất HĐ cho khách hàng. Vì kỹ thuật tinh vi, khó phát hiện nên phía khách hàng không thể nhận biết đây là HĐ giả và đã hạch toán Thuế GTGT theo HĐ này.
Khi CQT xác định được là HĐ giả thì xử lý như thế nào và bên khách hàng đã hạch toán theo HĐ này thì có được khấu trừ Thuế GTGT không? Cơ chế giám sát trong trường hợp này là gì? Trách nhiệm thuộc về ai? Theo Luật sư Nghiêm, đây là những vấn đề cần được làm rõ…