Điểm tin báo chí sáng ngày 16 tháng 3 năm 2011

16/03/2011
Trong buổi sáng ngày 16/3/2011, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:

1. Báo Đất Việt có bài Quỹ tiết kiệm nhà ở: Không nên bắt buộc. Bài báo phản ánh: Chỉ nên kêu gọi sự tự nguyện đóng góp vào Quỹ tiết kiệm nhà ở chứ không thể bắt buộc, vì nếu bắt buộc sẽ không khả thi. Mặt khác, chỉ nên coi Quỹ này là một trong những giải pháp, chứ không nên nghĩ rằng nó sẽ giải quyết dứt điểm vấn đề nhà ở cho người thu nhập thấp. Đó là quan điểm của một số chuyên gia bất động sản, nhà doanh nghiệp khi đón nhận thông tin Bộ Xây dựng lại vừa đề xuất doanh nghiệp cũng cần có trách nhiệm đóng góp vào Quỹ tiết kiệm nhà ở. Theo đó, doanh nghiệp có thể tham gia quỹ này theo hình thức cho quỹ “vay” và được hoàn trả sau một thời gian nhất định. Nếu chỉ người dân đóng góp thì quỹ sẽ rất nhỏ nên phải có sự tham gia của các doanh nghiệp. 

Trước khi đề xuất doanh nghiệp cũng phải tham gia, Bộ Xây dựng đã đề xuất với Chính phủ cho phép thành lập Quỹ tiết kiệm nhà ở do Nhà nước quản lý. Quỹ sẽ được xây dựng giống như hình thức bảo hiểm xã hội và mức đóng góp dự kiến 1-2% tổng tiền lương hàng tháng của người lao động. Khi được thành lập, Quỹ sẽ hỗ trợ những người thu nhập thấp vay mua nhà với lãi suất ưu đãi. Riêng những người không có nhu cầu mua nhà, khi về hưu sẽ được rút toàn bộ số tiền đóng góp cộng với lãi suất mang tính hỗ trợ trượt giá.

2. Báo Tiền phong online phản ánh: Đảm bảo đủ nguồn ngoại tệ để bán cho người dân, doanh nghiệp khi có nhu cầu hợp lý là một trong những nội dung chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp của Thường trực Chính phủ nghe tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, diễn ra ngày 15 - 3.

“Quyết liệt thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; chống hiện tượng đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế. Quản lý chặt chẽ thị trường vàng, ngoại hối. Kiểm soát, xử lý nghiêm tình trạng kinh doanh USD trái pháp luật. Đi liền với đó là đảm bảo đủ nguồn ngoại tệ để bán cho người dân, doanh nghiệp khi có nhu cầu hợp lý; đảm bảo đủ nguồn cung ngoại tệ đối với việc nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu. Dứt khoát thực hiện lộ trình xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do” - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao tinh thần tích cực, khẩn trương, nghiêm túc của các bộ, ngành, địa phương khi triển khai Nghị quyết 11; hoan nghênh các cơ quan báo chí, truyền thông đã chủ động vào cuộc, tuyên truyền, phân tích, phổ biến sâu rộng, qua đó tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội. “Sự đồng thuận là thành công bước đầu của Nghị quyết 11, vấn đề đặt ra là tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết này”- Thủ tướng nói.

Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Nghị quyết 11 được dư luận xã hội đánh giá là ban hành kịp thời, đúng, trúng và hết sức cần thiết. Sau một thời gian ngắn triển khai Nghị quyết, vấn đề về tỷ giá, giá vàng, thị trường vàng dần đi vào ổn định, đây là một tín hiệu rất tích cực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 11, vấn đề nổi lên là việc quản lý ngoại tệ, vàng cần phải đáp ứng kịp thời nhu cầu cần thiết của nhân dân, doanh nghiệp.

3. Báo Thanh niên phản ánh: Những trí thức trẻ tình nguyện về làm phó chủ tịch UBND tại các xã nghèo, xã miền núi, vùng sâu, vùng xa trong phạm vi cả nước nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sau 3 năm trên tổng số 5 năm công tác sẽ có cơ hội được xem xét bổ nhiệm, đề bạt vị trí cao hơn. Ông Vũ Đăng Minh, quyền Vụ trưởng Vụ Công tác thanh niên, Bộ Nội vụ đã cho biết như vậy khi trao đổi với Thanh Niên xung quanh dự án đưa 600 trí thức trẻ tăng cường cho các xã nghèo, thực hiện Quyết định số 08/2011 của Thủ tướng (có hiệu lực từ ngày 15.3.2011).

Ông Vũ Đăng Minh cho biết, hiện công tác tiếp nhận đăng ký, tuyển chọn các trí thức trẻ để trình cấp trên phê duyệt đang được triển khai, cuối năm nay có thể bắt đầu đưa cán bộ về cơ sở. Cũng theo ông Minh, các trí thức trẻ được tuyển chọn sẽ được bồi dưỡng, đào tạo, trang bị kiến thức, kinh nghiệm điều hành liên quan đến vị trí, chức danh, công việc chuyên môn mà họ sẽ phải đảm nhận dưới chức danh phó chủ tịch UBND xã, về cả quyền lợi cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm khi đảm nhận vị trí này.

Theo dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường về làm phó chủ tịch UBND xã thuộc 62 huyện nghèo trong cả nước mà Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 26.1.2011, trong giai đoạn 1 (từ 2011 - 2012) sẽ thí điểm triển khai dự án tại 5 tỉnh Cao Bằng, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Ngãi và Kon Tum với số lượng trí thức trẻ dự kiến 100 người, bố trí tăng cường chức danh phó chủ tịch xã cho 100/185 xã của 5 tỉnh này. Sang giai đoạn 2, từ sau năm 2013 đến hết thời gian triển khai Nghị quyết 30a/2008 (năm 2020), sẽ triển khai tổng thể đối với các xã còn lại trong phạm vi dự án. Việc bố trí các phó chủ tịch xã về các huyện nghèo kết thúc trước ngày 31.12.2014. Sau khi tăng cường đầu tư vốn, cơ sở hạ tầng thì việc Chính phủ tăng cường tri thức, trực tiếp là cán bộ lãnh đạo trình độ cao cho các xã nghèo vùng sâu, vùng xa được coi là giải pháp căn cơ để giúp các xã này phát triển. Và hơn hết, đây cũng chính là cơ hội để thử thách tinh thần xung kích của trí thức trẻ. Xét về công tác tổ chức thì đây là trường đào tạo cán bộ tương lai không tồi.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:

1. Báo Nhân dân điện tử có bài Hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở. Bài báo phản ánh: Công tác hòa giải ở cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đoàn kết, ngăn chặn tình trạng đơn thư, khiếu nại phức tạp, góp phần giữ gìn an ninh, trật tự địa bàn. Những năm qua, ngành tư pháp phối hợp cùng chính quyền các cấp tích cực triển khai nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.

Bạn đọc Vĩnh Linh (Kiên Giang): Với trách nhiệm được giao, ngành tư pháp các địa phương thường xuyên phối hợp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ngành liên quan hướng dẫn, đôn đốc, theo dõi kiểm tra việc thành lập, củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ hòa giải tại các xã, phường, thị trấn. Từ nguồn kinh phí do trung ương, địa phương phân bổ, ngành tư pháp đã tổ chức tốt việc biên soạn, in ấn, phát hành các tài liệu phục vụ việc tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật cho hòa giải viên; tổ chức hội nghị về công tác hòa giải; tổ chức các cuộc thi hòa giải viên giỏi ở cấp cơ sở thu hút hàng trăm tổ viên tổ hòa giải các địa phương tham gia. Nhờ vậy, kiến thức, cách thức tiến hành hòa giải, kỹ năng hòa giải của hòa giải viên không ngừng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu công việc được giao. Ðể động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hòa giải ở cơ sở và công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhiều địa phương ban hành mức chi từ 50 đến 200 nghìn đồng/vụ việc hòa giải.

Bạn đọc Trịnh Thu Hằng (Bến Tre): Công việc của các thành viên tổ hòa giải ở cấp cơ sở nhiều khi bận như có con mọn. Bất kể các việc mâu thuẫn, xích mính lớn nhỏ ở địa phương, người làm công tác hòa giải đều phải nắm bắt để có biện pháp ngăn chặn. Từ những việc phát sinh trong nội bộ gia đình, như vợ chồng bất hòa, anh em cãi cọ đến chuyện hàng xóm xô xát, tranh chấp đất đai, vướng mắc trong làm ăn kinh tế, đều cần sự kịp thời có mặt của cán bộ hòa giải để dàn xếp. Nếu không, những mâu thuẫn này rất có thể trở thành ngòi nổ gây nên những vụ việc phức tạp về hình sự. Cán bộ tổ hòa giải với kinh nghiệm hiểu biết pháp luật và thái độ mềm mỏng, khôn khéo, họ tìm cách thuyết phục, động viên các bên kiềm chế sự nóng giận, bình tĩnh ngồi lại với nhau giải quyết vướng mắc. Yêu cầu đối với người làm công tác hòa giải là vừa phải có trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật, am hiểu phong tục, tập quán, thói quen của người dân địa phương, vừa phải là người mẫu mực, có uy tín tại địa bàn dân cư. Ðôi khi, hòa giải viên gặp rủi ro trong hoạt động nghề nghiệp. Có hòa giải viên bị đối tượng nổi khùng chửi bới, hành hung, gây thương tích hoặc vì nhiệt tình với công việc mà bị hiểu lầm.

Bạn đọc Phạm Văn Chung (Kon Tum): Chỉ tính riêng ở tỉnh Kon Tum đã có 824 tổ hòa giải ở các thôn, làng, tổ dân phố với 5.696 tổ viên. Hoạt động hòa giải ở cơ sở ngày càng được triển khai sâu rộng, dần trở thành nét đẹp trong đời sống cộng đồng; thực hiện giải quyết ổn thỏa các mâu thuẫn, xích mích trong nhân dân; góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng tinh thần tương thân, tương ái; hỗ trợ tích cực cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Ðể công tác hòa giải cơ sở đạt hiệu quả thiết thực hơn nữa, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu đề ra các chính sách phù hợp điều kiện cụ thể của địa phương, khuyến khích lòng nhiệt tình, đề cao trách nhiệm của các tổ viên, bảo đảm các điều kiện để các tổ hòa giải hoạt động đạt kết quả tốt.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Tìm đương sự án dân sự như… mò kim đáy biển. Bài báo phản ánh: “Cuộc chiến” lặng thầm nhưng hết sức nan giải của các chấp hành viên khi bắt đầu quy trình thi hành một bản án chính là chuyện…. đi tìm địa chỉ của đương sự. Đột ngột “mất tích”, “thoắt ẩn thoắt hiện”, thậm chí … “bài binh bố trận” để trốn thi hành án dân sự (THA) là "chuyện thường ngày".

Mất cả ngày trời “lọ mọ” trên địa bàn một phường đông đúc ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, với sự giúp đỡ của chính quyền phường sở tại và tổ dân phố, các chấp hành viên mới tìm được đến ngôi nhà của người phải THA theo bản án tuyên. Nhưng bất ngờ, tìm được đến nơi thì đây chỉ là chỗ thuê trọ của người phải THA. Chủ nhà nói đối tượng này đã “mất tích” từ khi đi thụ án. Mãn hạn tù cũng không hề quay trở lại. Bị kết án vì buôn bán ma túy (nhỏ), bản thân con nghiện này không hề có tài sản và đã bị cha mẹ “từ” về những thành tích bất hảo. Những câu chuyện về đi tìm địa chỉ của người phải THA có lẽ là bất tận đối với các cán bộ THA. Không chỉ trong các vụ án hình sự, đối tượng sau khi mãn hạn tù không quay trở về địa phương sinh sống mà bỏ nhà đi lang thang, trong án dân sự, việc tìm kiếm họ cũng khó khăn không kém. Nhiều vụ, tìm được địa chỉ thì không thấy người, hoặc có người nhưng họ nay đây mai đó, thi thoảng mới xuất hiện. Thậm chí nhiều vụ, xác minh địa chỉ ghi trên bản án, cán bộ THA mới biết đó là… địa chỉ “ma”. Đó là chưa kể những trường hợp đương sự không chỉ cư trú ở Việt Nam mà còn cư trú ở nhiều nước, trong khi thủ tục thông báo đến các đối tượng này rất khó khăn, phức tạp.

Khó tìm, hoặc không tìm thấy địa chỉ của người phải THA là một trong những nguyên nhân của án tồn đọng. Cục trưởng THADS Hải Dương Nguyễn Văn Tường cho biết: số lượng án trên địa bàn còn tồn đọng nhiều, bên cạnh nguyên nhân người phải THA không có tài sản, gia đình khó khăn còn có nguyên nhân do họ đi làm ăn xa, không xác định được địa chỉ. Theo quy định của Luật THADS, sau khi ra quyết định cơ quan THA phải gửi thông báo này và các loại giấy tờ khác cho đương sự. Tuy nhiên, vì những vụ không rõ địa chỉ hoặc địa chỉ không có thực dẫn đến việc thông báo (dù trực tiếp hay các hình thức khác) cũng mất nhiều chi phí, ảnh hưởng đến tiến độ THA. Thậm chí, theo Chi cục trưởng THADS Ba Đình, Hà Nội Nguyễn Văn Lạng, “thông báo xong, đương sự tìm mọi cách tẩu tán tài sản”.

Để không “đẩy” THA vào thế bí trong việc đi tìm địa chỉ của đương sự, nhiều ý kiến cho rằng, trước hết phải làm tốt khâu xác minh trong giai đoạn điều tra, xét xử. Cần xác định đúng, đầy đủ, chính xác địa chỉ của đương sự thì việc tìm kiếm sẽ bớt khó khăn. Điều này đòi hỏi trách nhiệm cao của các cơ quan tố tụng, mà trên hết là ngành Tòa án. Đối với những trường hợp được coi là “bất khả kháng” (như đương sự bỏ nhà đi sau khi án có hiệu lực) thì cơ quan THA cần phối hợp tốt với chính quyền địa phương, tổ dân phố kịp thời nắm bắt về thông tin của đối tượng, ngăn chặn các hiện tượng tẩu tán tài sản. Ngoài ra, với những trường hợp bên phải THA là các doanh nghiệp (đặc biệt là các Công ty TNHH), xuất phát từ thực tế là nhiều khi chỉ cần đổi tên công ty đã có thể “thoát” THA, hoặc ít ra cũng gây khó khăn cho cơ quan THA thì đòi hỏi cơ quan cấp phép phải “vào cuộc” cùng với THA để có biện pháp xử lý hữu hiệu.

3. Báo Lao động có bài TP.Hồ Chí Minh: Toà sai sao bắt dân chịu?. Bài báo phản ánh: Ngày 14.3, bà Trần Bích Ngọc (ngụ 42/4 đường Trương Quốc Dung, P.10, Q.Phú Nhuận) phản ánh đến các cơ quan chức năng và Báo Lao Động về việc làm trái luật của TAND Q.Phú Nhuận. Toà đã ra quyết định, sau đó cũng tự toà thay đổi bổ sung quyết định nhưng lại bằng “thông báo” là trái luật. Đáng nói là thông báo sửa chữa quyết định, nhưng bị đơn không biết. 

Ngày 11.8.2006, bà Ngọc ký hợp đồng tín dụng vay của Ngân hàng TMCP Gia Định 1.200.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, tài sản thế chấp là ngôi nhà số 42/4 đường Trương Quốc Dung, P.10, Q.Phú Nhuận. Sau đó, bà Ngọc không trả tiền lãi lẫn gốc theo hợp đồng đã ký, phía ngân hàng khởi kiện vụ án dân sự ra TAND Q.Phú Nhuận ngày 24.10.2007. Ngày 1.11.2007, TAND Q.Phú Nhuận mời nguyên đơn và bị đơn để hoà giải và cuộc hoà giải này thành công. Ngày 9.11.2007, TAND Q.Phú Nhuận ra quyết định số 280/2007/QĐST-DS, với phần “xét thấy”, toà ghi: “Đã hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, không có đương sự nào thay đổi ý kiến”.

Do vậy TAND Q.Phú Nhuận do thẩm phán Trần Thị Thanh Trúc đã ký quyết định: “Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự... Bà Ngọc phải trả cho Ngân hàng TMCP Gia Định số tiền nợ gốc 1.200.000.000 đồng và số tiền lãi quá hạn tính đến ngày 31.1.2008 là 109.410.000 đồng. Tổng cộng 1.309.410.000 đồng. Thi hành chậm nhất là ngày 31.1.2008 tại Thi hành án dân sự Q.Phú Nhuận. Nếu quá thời hạn 31.1.2008 mà bà Ngọc chưa hoàn trả xong số nợ trên thì bà Ngọc đồng ý phát mại căn nhà 42/4 Trương Quốc Dung, P.10, Q.Phú Nhuận để hoàn trả nợ. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”.

Theo bà Ngọc cho biết, từ đầu năm 2008 đến ngày 10.3.2011, Thi hành án dân sự Q.Phú Nhuận đã nhiều lần định giá rồi qua trung tâm đấu giá nhưng vẫn không bán được căn nhà của bà Ngọc để thi hành án. Ngày 10.3.2011, bà Ngọc đã có đủ số tiền 1.309.410.000 đồng, mang đến Thi hành án dân sự Q.Phú Nhuận để nộp trả ngân hàng theo như quyết định của toà án, thì phía ngân hàng không chấp nhận mà yêu cầu bà Ngọc phải trả thêm hơn 800 triệu đồng tiền lãi tính đến ngày 2.3.2011. Bà Ngọc không đồng ý vì cho rằng toà đã quyết định theo thỏa thuận là số tiền phải trả chỉ có 1.309.410.000 đồng. Lúc này phía ngân hàng trưng ra một “thông báo sửa chữa, bổ sung quyết định” của TAND Q.Phú Nhuận, mang số 01/TB-TA cũng do thẩm phán Trần Thị Thanh Trúc ký ngày 21.2.2008.

Thông báo bổ sung này làm bà Ngọc bất ngờ, vì từ khi nhận quyết định hoà giải thành của toà đến nay bà không hề hay biết đến thông báo sửa chữa, bổ sung này. Càng nghiêm trọng hơn nội dung thông báo sửa chữa, bổ sung quyết định trước đó đã “sửa chữa” và “bổ sung” vào quyết định hoà giải thành của TAND Q.Phú Nhuận số 280, ngày 9.11.2007, cho rằng “có thiếu sót”. Thông báo ghi “Nếu quá thời hạn 31.1.2008 mà bà Ngọc chưa hoàn trả xong số nợ trên thì bà Ngọc đồng ý phát mại căn nhà để hoàn trả nợ. Nay cần sửa chữa lại như sau: Nếu quá thời hạn 31.1.2008 mà bà Ngọc chưa hoàn trả xong số nợ thì bà Ngọc đồng ý phát mại căn nhà để trả nợ. Ngoài ra, bà Ngọc còn phải trả tiền lãi theo lãi suất Ngân hàng Nhà nước quy định cho đến khi thi hành xong đối với số nợ”.

Theo quy định pháp luật, thì thông báo không có thẩm quyền sửa quyết định. Trường hợp TAND Q.Phú Nhuận muốn sửa chữa quyết định thì phải ban hành quyết định khác hủy quyết định trước, nhưng phải của cơ quan có thẩm quyền cùng cấp hoặc cấp trên, chứ không phải là bản thông báo. Bà Ngọc cho rằng: “Cái sai là do TAND Q.Phú Nhuận chịu trách nhiệm, tôi chỉ đóng đúng số tiền theo quyết định của toà. Còn trường hợp ngân hàng đòi tôi số tiền tính lãi như theo thông báo sửa chữa, bổ sung là hoàn toàn vô lý, trái pháp luật”.