Điểm tin báo chí sáng ngày 04 tháng 3 năm 2011

04/03/2011
Trong buổi sáng ngày 04/3/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Đất Việt có bài Phản đối Trung Quốc diễn tập quân sự ở Trường Sa. Bài báo đưa tin: Ngày 25/2/2011, Tân Hoa Xã (Trung Quốc) đưa tin ngày 24/2/2011, biên đội tàu hộ vệ số 8 hải quân Trung Quốc đã tiến hành diễn tập chống cướp biển ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Ngày 2/3/2011, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phản đối hoạt động này của phía Trung quốc. Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ việc Trung Quốc diễn tập quân sự ở khu vực quần đảo Trường Sa đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, hoàn toàn trái với Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002.

Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và yêu cầu Trung Quốc không có những hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, cùng các nước ASEAN thực hiện nghiêm túc DOC, góp phần gìn giữ hòa bình ở Biển Đông.

2. Báo điện tử Chính phủ có bài 5 điểm sáng của ngoại giao Việt Nam 5 năm qua. Bài báo đưa tin: Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác thông tin đối ngoại, tuyên truyền biển đảo và phân giới, cắm mốc năm 2010 vừa khai mạc ngày 3/3 tại TP.HCM, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm cho biết, điểm sáng thứ nhất trong giai đoạn 2006-2010 của ngoại giao Việt Nam là hoàn thành công tác cắm mốc biên giới phía Bắc với nước bạn Trung Quốc. Thứ hai là việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Thứ ba, Việt Nam hoàn thành tốt cương vị Chủ tịch Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc trong 2 năm 2007, 2008. Thứ tư, Việt Nam hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2010. Và cuối cùng, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác chiến lược toàn diện đi vào chiều sâu với các cường quốc khắp 5 châu.

3. Báo điện tử VOV News đưa tin: Ngày 3/3, tại Hà Nội, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức họp mặt nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Liên Việt (3/3/1951 – 3/3/2011). Dự buổi họp mặt có ông Huỳnh Đảm, Chủ tịch Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam; đại diện các Bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương và các thế hệ cán bộ Mặt trận.

Nhân dịp này, Đảng, Nhà nước đã trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho các ông Trần Đình Phùng và Nguyễn Văn Vĩnh, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; tặng Huân chương Lao động hạng Ba cho các Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Hà Văn Núi và Hà Thị Liên

4. Báo điện tử Doanh nhân toàn cầu có bài Hà Nội sắp có dự án đầu tiên áp dụng hình thức PPP. Bài báo đưa tin: Nếu được chính phủ đồng ý, dự án Nhà máy xử lý nước thải tập trung Yên Xá sẽ là dự án đầu tiên của Hà Nội áp dụng hình thức PPP. Theo dự án, việc triển khai phần hệ thống thu gom nước thải và các thiết bị xử lý nước thải sẽ sử dụng nguồn vốn Nhà nước, còn việc xây dựng các thiết bị xử lý bùn cùng Hệ thống tích hợp điều khiển và giám sát sẽ được đầu tư bằng nguồn vốn tư nhân.

Chính phủ Nhật Bản đã cung cấp khoản vay cho “Dự án thoát nước nhằm cải thiện môi trường Hà Nội” để phát triển hệ thống thoát nước. Công ty TNHH Nhà nước một thành viên thoát nước Hà Nội đang vận hành các nhà máy thuộc dự án này.

Trong thời gian tới sẽ có thêm 4 trạm xử lý nước thải nữa đi vào hoạt động sẽ khiến chi phí vận hành, bảo dưỡng tăng khoảng 1,4- 2 lần dự toán ngân sách. Vì vậy, việc huy động nguồn vốn tư nhân qua các dự án PPP về hạ tầng kỹ thuật sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Vietnam.net có bài Tự động xóa án tích, xóa mặc cảm 'tiền án, tiền sự'. Bài báo đưa tin về trao đổi giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường với báo chí tại lễ ra mắt Trung tâm lý lịch tư pháp sáng ngày 02/3 tại Hà Nội.

Trao đổi với báo chí tại lễ ra mắt Trung tâm sáng 2/3 tại Hà Nội, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết, người dân sẽ không cần phải yêu cầu cơ quan nào ra quyết định xóa án tích cho mình, trừ các trường hợp không được tự động xóa án tích mà phải có quyết định của tòa án theo quy định pháp luật.

Trước đây, người dân chưa quen với quy định tự động xóa án tích nên nhiều người dù đã được xóa án tích từ lâu nhưng do không biết, vẫn mặc cảm mình có “tiền án, tiền sự”. Ông Cường thông tin thêm rằng việc cấp phiếu LLTP cũng sẽ có những thay đổi nhất định. Trước đây, phải chờ kết quả của Bộ Công an, hoặc tòa án, Viện Kiểm sát… nên phức tạp và mất thời gian.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Sẽ đơn giản hóa thủ tục kết hôn có yếu tố nước ngoài. Bài báo đưa tin: Ngày 3-3, Ban soạn thảo, tổ biên tập Nghị định sửa đổi, bổ sung hai NĐ 68/2002 và 69/2006 (quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình) đã họp cho ý kiến về phạm vi sửa đổi, bổ sung lần này.

Tổ biên tập xin ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung 18 vấn đề, đáng chú ý có ba vấn đề lớn. Thứ nhất, trường hợp công dân VN vắng mặt khi làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì việc kết hôn đó có được công nhận tại VN hay không? Quan điểm của tổ biên tập là không công nhận. Vấn đề thứ hai là nên duy trì hay bỏ thủ tục phỏng vấn kết hôn tại Sở Tư pháp? Đề xuất của tổ biên tập không bỏ nhưng giảm thời hạn phỏng vấn và xác minh tại Sở Tư pháp từ 20 ngày xuống 10 ngày làm việc. Vấn đề lớn thứ ba, trình tự thủ tục giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp sẽ được sửa đổi theo hướng rút ngắn thời gian, đơn giản hóa các thủ tục. Chẳng hạn, khi nộp hồ sơ đăng ký kết hôn chỉ cần có mặt một trong hai đương sự (thay vì cả hai phải có mặt như quy định hiện tại); thời hạn giải quyết rút xuống còn 20 ngày làm việc (hiện tại là 30 ngày)…

Do số điều luật phải sửa đổi, bãi bỏ quá nhiều, tổ biên tập đề xuất ban hành hẳn một nghị định mới để thay thế cho hai nghị định nói trên.

3. Báo Nhân dân có bài Thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài: “Bó” cũng khó mà “cởi” cũng khó. Bài báo phản ánh: Thực tiễn thời gian qua, việc triển khai áp dụng Nghị định số 68/2002NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc hướng dẫn giải quyết về hôn nhân có yếu tố nước ngoài gặp phải không ít vướng mắc. Điều đáng nói là một số quy định trong đó còn mang tính hình thức, quy định cho có, không hiệu quả cũng như không giúp hạn chế rủi ro cho những người đăng ký kết hôn.

Một trong những quy định mang tính hình thức đó là quy trình phỏng vấn người đăng ký kết hôn. Theo Nghị định số 69, Sở Tư pháp chỉ tiến hành phỏng vấn để làm rõ sự tự nguyện kết hôn của các bên, mà không yêu cầu làm rõ khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung, mức độ hiểu biết về hoàn cảnh của nhau... Trong khi đó, qua phỏng vấn, cán bộ tư pháp nhận thấy hai bên không giao tiếp được với nhau do bất đồng ngôn ngữ, không biết gì về hoàn cảnh của nhau, thậm chí mới gặp gỡ một lần... Đó là chưa kể việc bất đồng ngôn ngữ giữa cán bộ phỏng vấn và người đăng ký, tất cả chỉ dựa vào lời nói của phiên dịch, họ nói sao biết vậy.

Rõ ràng, nếu thấy việc kết hôn còn gượng ép, nhưng Sở Tư pháp chỉ có thể khuyến cáo các bên nên dành thêm một khoảng thời gian cần thiết để về tìm hiểu thêm về nhau, mà chưa có căn cứ pháp lý để từ chối đăng ký kết hôn. Hay một số trường hợp tuy không vi phạm pháp luật nhưng về mặt đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam lại không phù hợp như trường hợp xin kết hôn mà người nữ hơn người nam đến 40 tuổi... Ở một số địa phương quy định phỏng vấn đã bị lợi dụng để gây sách nhiễu với đương sự.

Ngoài ra, việc niêm yết thông báo tại việc kết hôn tại Sở Tư pháp và UBND cấp xã, cơ quan ngoại giao và lãnh sự Việt cũng đang là vấn đề được ban soạn thảo sửa đổi hai Nghị định trên đưa ra xin ý kiến vì thực chất “chẳng mấy ai để ý”. Hay quy định người dự kiến đứng đầu trung tâm hỗ trợ kết hôn phải là người có đạo đức, có tâm huyết hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện. Có chăng chỉ cần quy định người dự kiến đứng đầu Trung tâm là người không có tiền án…vì khái niệm “ có đạo đức” chỉ mang tính chủ quan, cảm tính.

Có ý kiến cho rằng, trong thời gian tới trung tâm hỗ trợ kết hôn không nên là “nơi chỉ treo album, dán ảnh” mà cần là nơi cung cấp thông tin hữu ích về pháp luật và truyền đạt kỹ năng cho những người muốn kết hôn với người nước khác. Thực tế trên cả nước hiện có 18 trung tâm hỗ trợ kết hôn, trong đó có một số trung tâm chuyên hỗ trợ về kết hôn có yếu tổ nước ngoài. Song các trung tâm này còn gặp nhiều khó khăn khi hoạt động như kinh phí, nhân lực… nên hiệu quả hoạt động không cao.

Nhằm chấn chỉnh quản lý nhà nước đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài của công dân Việt Nam và thực hiện một phần Nghị quyết số 52/NQ-CP về việc đơn giản hóa về một số trình tự, thủ tục trong lĩnh vực này, Ban soạn thảo Nghị định sửa đổi hai văn bản trên đang cân nhắc về việc tăng thêm giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trong bộ hồ sơ xin đăng ký.

Cụ thể là trong trường hợp người Việt Nam (công dân Việt Nam, người đồng thời có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài đã từng có quốc tịch Việt Nam) cư trú ở nước ngoài mà trước khi xuất cảnh đã đủ tuổi kết hôn theo luật định thì phải có thêm xác nhận của UBND cấp xã, nơi người đó thường trú trước khi xuất cảnh về tình trạng hôn nhân. Còn trong trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú tại nhiều nước từ khi đủ tuổi kết hôn theo luật Việt Nam thì hồ sơ cần phải có xác nhận tình trạng hôn nhân tại nước hiện tại đang cư trú và bản cam đoan về tình trạng hôn nhân tại các nước còn lại.

Riêng đối với người nước ngoài có quốc tịch ở một nước nhưng thường trú ở một nước khác thì chỉ cần có xác nhận tình trạng hôn nhân của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó thường trú. “Lý do” mà người chấp bút soạn thảo phạm vi sửa đổi Nghị định đưa ra là, thực tế tại các địa phương đòi hỏi phải bổ sung các giấy tờ này để hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài được chặt chẽ.

Song có vấn đề nẩy sinh đó là xác nhận tình trạng hôn nhân của đương sự ở nước sở đúng là chặt chẽ về thủ tục nhưng nhiều khi nước đó không có quy định nào về vấn đề này mà chúng ta đưa ra các quy định bắt buộc phải có trong bộ hồ sơ là gây khó cho đương sự. Trong khi trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước là hạn chế rủi ro pháp lý cho công dân chứ không phải đưa ra nhiều quy định chặt chẽ buộc họ áp dụng.

Thời hạn chung để giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam có thể giảm xuống còn 20 ngày làm việc, kể từ ngày Sở Tư pháp nhận hồ sơ hợp lệ. Cán bộ thụ lý hồ sơ sẽ phải có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ ngay khi đương sự đến nộp. Trường hợp giấy tờ không đầy đủ hoặc chưa hợp lệ thì cán bộ thụ lý hồ sơ phải ghi rõ những giấy tờ cần bổ sung bằng văn bản giao cho đương sự. Điều này hạn chế được phần nào tình trạng “hành” dân khi họ đến nộp hồ sơ.

Thực tế cho thấy, pháp luật của một số nước về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài còn khá đơn giản và lỏng lẻo. Chẳng hạn, Hàn Quốc cho phép kết hôn có thể vắng mặt một bên. Kẽ hở này đã làm nảy sinh hoạt động môi giới kết hôn với nhiều hình thức trá hình, tinh vi để trục lợi, hoặc lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ qua biên giới.

Nhiều trường hợp tổ chức cho người nước ngoài xem mặt những phụ nữ Việt Nam có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài rồi lựa chọn đã hạ thấp danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ, xâm phạm nghiêm trọng thuần phong, mỹ tục, ảnh hưởng đến uy tín quốc gia, trở thành hiện tượng nhức nhối của xã hội. Để tránh thủ tục chặt chẽ của Việt Nam, các đối tượng này đã lập, gửi hồ sơ sang Hàn Quốc để đăng ký kết hôn ở đấy, sau đó mới về Việt Nam để ghi chú kết hôn.

Do đó, có nhiều ý kiến cho rằng việc sửa đổi hai văn bản hướng dẫn trên là rất cần thiết song sửa theo hướng nào mới thực sự đem lại hiệu quả. Đại diện Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao cho rằng, đa phần các vụ kết hôn có yếu tổ nước ngoài là vì lý do kinh tế. nếu chúng ta sửa đổi Nghị định hướng dẫn bằng việc mở rộng là không được khi mà tình trạng mất cân bằng giới tính ngày càng rõ rệt. Do đó, chúng ta “càng khép chặt bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu”.

Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra từng ngày, nhu cầu kết hôn với người nước ngoài cũng không nằm ngoài quy luật đó, liệu quy định chặt để giữ “cô dâu Việt” có đảm bảo được hay chỉ là cái cớ để “lách” luật? Nhưng nếu quy định “mở” mà không có cơ chế quản lý hiệu quả từ chính các cơ quan nhà nước, rủi ro đến với công dân Việt có lẽ sẽ không dừng lại ở những bài học xuất hiện trên báo chí thời gian qua.

4. Báo Đại đoàn kết có bài Ngành Tư pháp TP.Hồ Chí Minh: “Ngập” trong án tồn đọng. Bài báo phản ánh: Án tồn đọng được coi là “gánh nặng” của ngành Thi hành án TP. Hồ Chí Minh trong nhiều năm qua, đặc biệt là các vụ án dân sự liên quan tới tranh chấp trong lĩnh vực đất đai. Thậm chí, trong 3 năm gần đây thành phố mới chỉ giải quyết được trên 30% khối lượng án, còn gần 15.700 vụ việc tồn đọng, gây nhiều cản trở cho công tác cải cách thủ tục hành chính ngành Tư pháp.

 Theo thống kê, riêng hồ sơ án dân sự tồn đọng của các năm trước chuyển sang năm 2011 đã lên tới trên 40.500 việc (kết thúc năm còn gần 36.000 việc tồn đọng phải chuyển sang năm 2011). Thi hành án hình sự đến nay cũng còn tới 40 bị án chưa thực hiện (trong đó 20 án đã có hiệu lực). Tính riêng trong giai đoạn từ năm 2007 – 2010, TP mới chỉ giải quyết được trên 30% việc tồn đọng. Trong đó có nhiều vụ việc kéo dài đến trên 5 năm vẫn chưa được giải quyết.

Ông Nguyễn Văn Lực, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh giải thích, TP được coi là địa bàn phát sinh nhiều tranh chấp về dân sự, kinh tế, đất đai... đứng đầu cả nước dẫn tới lượng việc và giá trị thi hành án tăng, trong đó số vụ việc có tính chất phức tạp, nghiêm trọng xảy ra ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc thi hành án vẫn còn chậm, chưa dứt điểm khiến án tồn đọng nhiều, số chuyển sang năm sau còn rất lớn.

Ông Lực cũng thừa nhận, một bộ phận cán bộ công chức thi hành án hiện chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ tình hình mới, cá biệt còn có những cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có thái độ nhũng nhiễu hoặc vô cảm trước quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Đặc biệt, mới đây qua việc kiểm tra về công tác quản lý tài chính tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, TP đã phát hiện kế toán, thủ quỹ biển thủ, tiêu tiền thi hành án. Cục Thi hành án dân sự TP đã phải ra quyết định đình chỉ công tác cán bộ có liên quan, chuyển hồ sơ cho các cơ quan chức năng điều tra, làm rõ sai phạm và xử lý theo pháp luật. Sự việc này đã gây dư luận xã hội phức tạp suốt một thời gian dài.

Ở một khía cạnh khác, ông Trần Văn Sự, Phó Chánh án TAND TP. Hồ Chí Minh cho biết, hiện lượng án mà mỗi thẩm phán tại TAND TP phải thụ lý, giải quyết hàng tháng rất cao, trung bình 9 vụ/tháng (theo quy định chỉ 6 vụ/tháng), gây áp lực rất lớn cho thẩm phán về nghiên cứu hồ sơ và giải quyết án. Đó là chưa kể tại TAND các quận/huyện, cán bộ văn phòng còn phải kiêm nhiệm thêm rất nhiều việc như: văn thư, lưu trữ, đánh máy, thủ quỹ, thậm chí kiêm luôn cả thi hành án hình sự. Từ đó dẫn tới thực hiện không chuyên sâu, không đạt hiệu quả đã gây khó khăn trực tiếp cho công tác quản lý hành chính tư pháp.

Để giải quyết dứt điểm các vụ việc ngay từ khâu nhận đơn tố cáo, khiếu nại của công dân, tránh án tồn đọng, giải pháp mà ngành Thi hành án TP. Hồ Chí Minh đưa ra, hiện đã được triển khai tại các quận, huyện là mô hình lập “Sổ theo dõi tiếp dân”. Theo đó, cán bộ thực hiện nhiệm vụ tiếp dân chỉ được thực hiện tại phòng tiếp dân của cơ quan (tránh trường hợp phát sinh tiêu cực, biếu xén quà cáp) và kết thúc buổi tiếp dân, cán bộ phải có trách nhiệm ghi chép kết quả tiếp dân vào sổ theo dõi, trong đó ghi rõ ngày, giờ tiếp, nội dung khiếu nại, tố cáo và nội dung cán bộ hướng dẫn người dân thực hiện. Trường hợp vụ việc phức tạp, có tính chất nghiêm trọng thì phải báo cáo ngay lãnh đạo cấp trên để xử lý kịp thời.

Thực tế, thời gian qua do không làm tốt công tác tiếp dân, trong khi một số bộ phận cán bộ cản trở, trốn tránh việc thi hành án khiến cho bản án không thể thi hành được, hoặc thi hành không kịp thời dẫn tới phát sinh oan sai, hồ sơ kéo dài gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho những người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Điển hình vào năm 2010, TAND quận 1 (TP. Hồ Chí Minh) đã phải công khai xin lỗi bà Trương Thị Kim Hoàn do giam giữ oan bà trong gần 5 năm với tội mua bán trái phép chất ma túy. Đáng lưu ý, cả 2 lần bà Hoàn kêu oan thì cả 2 lần xét xử sơ thẩm, TAND quận 1 do không nghiên cứu kỹ bản án đã tuyên mức án 10 năm tù giam. Rất may vụ việc đã không đi quá đà và cuối cùng công lý đã được sáng tỏ.

Thi hành án là khâu cuối cùng của quá trình tố tụng, bảo đảm tính nhất định được thi hành của các bản án, bảm đảm tính dân chủ, công lý, nghiêm minh của pháp luật. Do đó, việc để án tồn đọng, kéo dài suốt nhiều năm là vấn đề cần phải được ngành Thi hành án TP.Hồ Chí Minh nhìn nhận rút kinh nhiệm một cách nghiêm túc và có những giải pháp hữu hiệu để giảm thiểu tối đa việc tồn đọng án. 

5. Báo Dân Việt có bài Đề xuất nâng mức chịu thuế thu nhập cá nhân. Bài báo đưa tin: Thuế thu nhập cá nhân được áp dụng từ năm 2009 đã không còn phù hợp và cần thiết phải sửa đổi khi mà tình trạng “bão giá” đã ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người làm công ăn lương hiện nay.

Những sửa đổi cơ bản của Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) vừa được Bộ Tài chính trình Thủ tướng, trong đó có 2 nội dung đề xuất sửa đổi rất quan trọng là nâng mức khởi điểm chịu thuế và thay đổi phương thức tính giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế.

Theo đề xuất, lương tối thiểu của khu vực sản xuất trong nước sẽ được lấy làm căn cứ để tính mức khởi điểm tính thuế, đồng thời đề xuất mức khởi điểm tính thuế nên bằng 8 lần lương tối thiểu. Khi ấy, mức khởi điểm tính thuế sẽ không quy định cứng nhắc như Luật Thuế hiện hành, mà sẽ được thay đổi hàng năm theo mức điều chỉnh của lương tối thiểu.

Nếu đề xuất này được thông qua, thì sắp tới đây khi mức lương tối thiểu theo vùng (mức thấp nhất) được điều chỉnh lên mức 830.000đồng/tháng, mức khởi điểm chịu thuế sẽ là 6.640.000 đồng.

29.000 tỷ đồng là số tiền thuế TNCN năm 2011 Bộ Tài chính dự kiến thu được. Trong đó, 75% thu được từ tiền công, tiền lương. Thu từ hộ sản xuất, kinh doanh chỉ khoảng 5,8%; chuyển nhượng bất động sản, quà tặng khoảng 13,6%; thu nhập khác vào khoảng trên 5%.

Theo đó, mức khởi điểm tính thuế TNCN cũng sẽ được tính theo vùng như mức lương tối thiểu của khu vực sản xuất trong nước chứ không phải cào bằng 4.000.000 đồng ở mọi khu vực như hiện nay. Như vậy, với người lao động ở khu vực như Hà Nội, TP.HCM thì mức khởi điểm tính thuế sẽ được tính với mức 10.800.000 đồng/tháng.

Theo Bộ Tài chính, một điểm rất mới mà Bộ này đề xuất là tính thuế theo hộ gia đình, dựa trên cơ sở tính tổng thu nhập của cả gia đình rồi chia cho từng cá nhân chứ không tính thuế trên mỗi cá nhân có thu nhập. Nếu thu nhập trung bình nhỏ hơn mức khởi điểm tính thuế, thì sẽ không phải nộp thuế và ngược lại. Mức giảm trừ gia cảnh hiện đang được đề xuất bằng 3 lần mức lương tối thiểu (hiện nay mức giảm trừ đang là 1,6 triệu đồng/người/tháng).

Nhận xét về những quy định mới được đề xuất của Luật Thuế TNCN, thạc sỹ Đinh Tuấn Minh (Trường Đại học Quốc gia HN) cho rằng: Việc nâng mức khởi điểm chịu thuế trong thời điểm hiện nay là điều phải làm, cần làm ngay.

Ông Đặng Ngọc Tùng - Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động VN là người đã từng đề xuất mức khởi điểm chịu thuế phải gấp 10 lần lương tối thiểu trong lần lấy ý kiến tại diễn đàn Quốc hội trước đây.

Về những sửa đổi lần này, ông Tùng cho rằng: Việc xác định mức khởi điểm chịu thuế dựa trên mức lương khởi điểm là tiến bộ bởi tiền VND mỗi năm đều mất giá từ 7-10% nên quy định như vậy là để tránh việc luật chưa ban hành đã lạc hậu.

6. Báo Hà Nội mới có bài Cơ chế và trách nhiệm. Bài báo đưa tin: Hà Nội đang tập trung đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn. Kinh nghiệm thành phố cho thấy, nếu giao cho cấp huyện thực hiện là hiệu quả nhất. Nhưng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của thành phố chưa có cơ chế phân giao này, nên các huyện vẫn phải đứng ngoài cuộc, trong khi công việc thì "chạy chậm". Điều này cho thấy, việc hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng đặt ra cấp thiết.

Hà Nội cũng như các địa phương khác, cũng có một hệ thống hàng ngàn văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các văn bản cụ thể hóa cơ chế, chính sách của TƯ và các quy định mang tính chất đặc thù. Hệ thống này hằng ngày ảnh hưởng tới tất cả mọi mặt đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế-xã hội… Tính chất hoàn chỉnh hay chưa hoàn chỉnh của hệ thống này đều có những tác động cụ thể, biểu hiện trong thực tế đời sống.

Thiếu quy định hay cơ chế, chính sách chưa theo kịp thực tế, còn chồng chéo vẫn là những vấn đề nổi cộm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Hà Nội. Nhiều chuyên gia cho rằng, để nâng cao hiệu quả, hiệu lực, tạo nguồn lực phát triển trước hết cần tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, chính sách. Khi cơ chế, chính sách được mở ra, nhiều việc tưởng chừng không làm được sẽ trở nên dễ dàng.

Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, điều hạn chế lớn nhất, cản trở Hà Nội thăng hạng cạnh tranh cấp tỉnh là thành phố "chưa có quy hoạch chung dẫn tới lúng túng trong thu hút đầu tư, đặc biệt là đối với những dự án lớn". Điều này cũng được Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Huy Tưởng xác nhận. Đây là một phần trong nhiều nội dung Hà Nội (nhấn mạnh là cấp địa phương) cần có để làm cơ sở phát triển hệ thống cơ chế, chính sách cần thiết, nhưng phụ thuộc nhiều vào sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía các bộ, ngành trung ương. Luật Thủ đô là một nội dung khác mà Thủ đô rất chờ đợi để làm nền tảng nâng cấp, phát triển hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của riêng mình. Đó không phải là đặc quyền, đặc lợi mà tất cả chỉ nhằm hướng tới một tương lai phát triển tốt hơn cho Thủ đô. Có thể nói, thành phố rất cần sự hỗ trợ từ các cơ quan TƯ để hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Trở lại với vai trò và trách nhiệm của các cấp, ngành thành phố trong việc này, lâu nay, nhiều cơ quan, đơn vị hoặc địa phương thường hay kêu ca rằng việc này không "chạy" vì vướng mắc cơ chế này, khó khăn do cơ chế kia. Có thể nói cơ chế là do chúng ta, cơ chế chưa mở là vì chúng ta chưa chủ động, chưa hành động. Trong nhiều vấn đề vướng mắc về cơ chế, chính sách hiện nay lại phụ thuộc rất nhiều vào vai trò tham mưu của các sở, ngành, địa phương. Vì vậy, để thay đổi, các sở, ngành không còn cách nào khác là nâng cao chất lượng và hiệu quả tham mưu về cơ chế, chính sách.

Hệ thống cơ chế, chính sách chỉ thực sự trở thành động lực mạnh cho phát triển của Thủ đô khi mà đồng thời với nỗ lực của thành phố, còn có sự hỗ trợ của Trung ương và sự vào cuộc trách nhiệm của các cấp, ngành thành phố. Ở đây, vấn đề phụ thuộc vào một điều chính yếu: Trách nhiệm.

7. Diễn đàn kinh tế  Việt Nam có bài Quản lý đất đai và chuyện "thả gà ra đuổi". Bài báo phản ánh: Trước áp lực thu hút đầu tư, nhiều tỉnh thành trên cả nước đã mạnh tay cấp đất, giao dự án có sử dụng đất cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, các chủ đầu tư lại không “mặn mà” lắm với việc đóng tiền sử dụng đất, điều kiện quan trọng để được sử dụng đất cho hoạt động sản xuất kinh doanh.  Chính vì vậy, nhiều tỉnh thành sau khi cấp đất lại phải lo đi "đòi" tiền sử dụng đất của doanh nghiệp, một công việc được ví như "thả gà ra đuổi".

Cuối năm 2010, dư luận từng xôn xao khi Thanh tra Chính phủ có Kết luận số 2931/KL-TTCP về tình hình vi phạm trong quản lý đất đai tại Bắc Ninh. Điều đáng nói là, bên cạnh một số sai phạm trong quản lý chung, vấn đề nổi cộm của Bắc Ninh chính là tình trạng các doanh nghiệp không chịu hoàn tất nghĩa vụ đóng tiền sử dụng đất.

Theo thống kê của UBND tỉnh Bắc Ninh, tính đến cuối năm 2010, Công ty Đại Hoàng Long, chủ đầu tư dự án khu đô thị mới Nam Võ Cường còn nợ đọng tiền sử dụng đất là hơn 29 tỷ đồng; Công ty Cổ phần Xây dựng Tây Hồ, chủ đầu tư dự án khu đô thị mới Quế Võ nợ hơn 47 tỷ đồng; Công ty Đại Dương, chủ đầu tư dự án khu nhà ở Nguyễn Quyền nợ đọng hơn 85 tỷ đồng; Công ty Cổ phần Địa ốc An Huy, chủ đầu tư dự án khu nhà ở đường Kinh Dương Vương, thành phố Bắc Ninh, nợ đọng hơn 69 tỷ đồng.

Không chỉ ở các dự án giao đất thông thường, tình trạng nợ đọng cũng diễn ra đối với các dự án giao đất thông qua đấu giá. Tổng cộng, các chủ đầu tư các dự án giao đất ở thông qua đấu giá trên địa bàn tỉnh còn nợ tiền sử dụng đất gần 400 tỷ đồng. Bên cạnh đó, đối với các dự án mà chủ đầu tư phải nộp tiền thuê đất cũng diễn ra tình trạng nợ.

Mới đây, tỉnh Bắc Ninh đã phải có văn bản đôn đốc các cơ quan chức năng vào cuộc rốt ráo để "thu đúng thu đủ" các khoản nợ này. Theo văn bản của tỉnh, các tổ chức, đơn vị, cá nhân có sai phạm phải  nhận thức rõ trách nhiệm về các sai phạm của mình, nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm, tự giác thực hiện dứt điểm các kiến nghị trong Kết luận thanh tra đã chỉ ra. Tỉnh này cũng sẽ xử lý nghiêm đối với các tổ chức và cá nhân có sai phạm; tiến hành thu hồi triệt để, dứt điểm số tiền nợ đọng và số tiền sai phạm đã nêu  trong kết luận thanh tra.

Đáng chú ý là, các dự án giao đất, thuê đất chậm đưa vào sử dụng kiên quyết lập kế hoạch xử lý, nếu không có khả năng triển khai phải kiên quyết thu hồi. Nếu dự án đề nghị tiếp tục thực hiện thì chủ đầu tư phải có dự án, cam kết thời gian hoàn thành và tiến hành ký quỹ đảm bảo thực hiện dự án theo đúng quy định. Đối với dự án nợ đọng tiền sử dụng đất, sẽ kiên quyết thu hồi triệt để. Nếu không nộp đủ đúng quy định phải tiến hành các biện pháp phong tỏa tài khoản, hoặc thu dự án hoặc một phần dự án và công bố trên phương tiện thông tin đại chúng.

Các công trình công cộng trong dự án khu đô thị phải lập dự án xây dựng xong trước 30/12/2010 và triển khai xây dựng trước tháng 6/2011, nếu không thực hiện đúng thì thu hồi và chuyển giao cho các đơn vị, doanh nghiệp có năng lực để xây dựng, văn bản nêu rõ.

Có thể thấy Bắc Ninh đang rất quyết tâm trong vấn đề xử lý các sai phạm trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên, trên thực tế các công việc này có được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả hay không thì vẫn còn là một câu hỏi. Áp lực về việc hài hòa giữa giữ vững kỷ cương phép nước trong lĩnh vực đất đai và giải quyết hợp lý các vấn đề của cộng đồng doanh nghiệp là chuyện không dễ dàng trong trường hợp này.