I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Nông nghiệp phản ánh: Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng cho biết, bộ đã trình chính phủ hai phương án thu phí cho Quỹ bảo trì đường bộ, gồm thu qua xăng dầu và thu trên đầu phương tiện. Thu phí cho Quỹ bảo trì đường bộ được xem là cần thiết để có vốn cho công tác duy tu, bảo dưỡng đường bộ, bởi hiện ngân sách nhà nước cấp mới đáp ứng được khoảng 40-50%. Theo ông Dũng, cả hai phương án này đều có mặt tích cực và hạn chế, do vậy cần đưa cả hai phương án ra tham khảo ý kiến xã hội, lấy ý kiến cơ quan chức năng, sau đó chính phủ sẽ quyết định. Cũng theo ông Dũng, thu phí qua xăng dầu đảm bảo công bằng hơn bởi xe nào đi nhiều thì phải trả phí nhiều hơn. Tuy nhiên, phương án này có hạn chế là thu thế nào với người sử dụng xăng, dầu không cho mục đích giao thông. Việc thu phí trên đầu phương tiện sẽ khắc phục được những hạn chế trên nhưng lại không bảo đảm công bằng giữa các phương tiện đi ít, đi nhiều.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 16-2, Thủ tướng ký Quyết định số 215/QĐ-TTg hướng dẫn cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Theo đó, việc dự kiến và định hướng cơ cấu, thành phần đại biểu HĐND các cấp phải đảm bảo phát huy dân chủ và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất trong công tác cán bộ.
Căn cứ tình hình cụ thể của mỗi đơn vị hành chính để dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần đại biểu HĐND các cấp phù hợp ở mỗi địa phương, thực hiện các định hướng cơ cấu: Về cơ cấu đại biểu trẻ dưới 35 tuổi, phấn đấu đạt tỷ lệ chung không dưới 15%; về cơ cấu đại biểu nữ, phấn đấu đạt tỷ lệ chung khoảng 30% trở lên; về tỷ lệ đại biểu là người ngoài Đảng, phấn đấu đạt tỷ lệ chung không dưới 10%. Các xã, thị trấn miền xuôi có từ 4.000 người trở xuống được bầu 25 đại biểu. Nếu có trên 4.000 người thì cứ thêm 2.000 người được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu. Xã, thị trấn miền núi và hải đảo có từ 2.000 - 3.000 người được bầu 25 đại biểu. Nếu trên 3.000 người thì cứ thêm 1.000 người được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu. HĐND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được bầu không quá 40 đại biểu. Số lượng đại biểu HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ là: Tỉnh miền xuôi và thành phố trực thuộc TƯ có từ 1 triệu người trở xuống được bầu 50 đại biểu; nếu có trên 1 triệu người thì cứ thêm 50.000 người được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu. Tỉnh miền núi có từ 500.000 người trở xuống được bầu 50 đại biểu, có trên 500.000 người thì cứ thêm 30.000 người được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu. Thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ khác có trên 3 triệu người được bầu không quá 95 đại biểu HĐND.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Đầu tư có bài Quản lý chặt nhập cư vào Thủ đô Hà Nội. Bài báo phản ánh: Mật độ dân số tại nhiều khu vực của Hà Nội hiện ở mức quá cao, vì vậy, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, khi bảo vệ Dự thảo Luật Thủ đô tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày hôm qua (15/2/2010), vẫn nhấn mạnh quan điểm phải quản lý chặt nhập cư vào các quận nội thành Hà Nội.
Thưa ông, theo quy định của Hiến pháp, công dân có quyền tự do cư trú, vậy việc thắt chặt nhập cư vào các quận nội thành Hà Nội có vi phạm Hiến pháp không?
Hiến pháp quy định công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của pháp luật, chứ không phải tự do cư trú ở đâu cũng được. Luật Thủ đô là luật, công dân cư trú tại Hà Nội phải theo Luật này là phù hợp với Hiến pháp. Theo kết quả điều tra mới nhất (năm 2009), mật độ dân số của Hà Nội là 1.926 người/km2, trong đó, quận Đống Đa có mật độ tới 36.550 người/km2, quận Hai Bà Trưng là 29.368 người/km2. Trong khi dân số Thủ đô tiếp tục tăng mạnh, nếu không kiểm soát chặt chẽ, thì Hà Nội sẽ không đủ kinh phí để cải thiện cơ sở hạ tầng, cũng như tăng khả năng cung ứng các dịch vụ công cho người dân.
Việc thắt chặt nhập cư vào Hà Nội sẽ mâu thuẫn với Luật Cư trú…?
Luật Thủ đô không trái với Luật Cư trú, mà chỉ có một số quy định khác với Luật Cư trú. Tôi cho rằng, nếu không có một số quy định khác với các luật khác, thì không cần thiết phải xây dựng Luật Thủ đô. Một số quy định của Luật Thủ đô khác với một số luật khác cũng là điều bình thường, vì luật đều do Quốc hội ban hành và theo quy định: khi luật ban hành sau có quy định khác với luật ban hành trước thì thực hiện theo luật ban hành sau; luật chuyên ngành có quy định khác thì thực hiện theo luật chuyên ngành.
Nhưng vẫn có thể áp dụng Luật Cư trú để thực hiện quản lý nhà nước liên quan đến cư trú của người dân trên địa bàn Hà Nội, thưa ông?
Theo Luật Cư trú, công dân có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ 1 năm trở lên; được điều động, tuyển dụng đến làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn và có chỗ ở hợp pháp (trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản)… đều được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương. Quy định này phù hợp với các địa phương như Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng, nhưng gây khó đối với Hà Nội, TP.HCM, bởi không thể quản lý được tốc độ tăng dân cư cơ học quá nhanh trong khu vực nội thành. Hậu quả là, bộ mặt đô thị nhếch nhác, giao thông quá tải và rất nhiều hệ lụy khác, cho dù hàng năm, Hà Nội và TP.HCM đầu tư không ít tiền cho khắc phục ùn tắc giao thông, chỉnh trang đô thị, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội…
Sau gần 4 năm thực hiện Luật Cư trú, ông thấy nổi lên những vấn đề gì cần phải sửa đổi, bổ sung?
Với các địa phương khác thì chưa có vấn đề gì, nhưng với Hà Nội và TP.HCM, do điều kiện cư trú quá dễ dàng, nên đã phát sinh nhiều vấn đề. Vì vậy, Chính phủ đã chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Nghị định hướng dẫn Luật Cư trú theo hướng quy định cụ thể diện tích tối thiểu mà cá nhân có thể cho ở nhờ, cho thuê, bảo đảm cho cá nhân thuê nhà, ở nhờ nhà có đủ diện tích tối thiểu để sinh hoạt.
Nếu Quốc hội đồng tình với quan điểm cần phải quản lý chặt dân cư sống tại nội thành Hà Nội, mật độ dân cư phải phù hợp với hạ tầng kinh tế - xã hội, thì cần phải có quy định chặt chẽ nội dung này trong Luật Thủ đô để tránh tình trạng doanh nghiệp tuỳ tiện xác nhận việc làm thường xuyên cho cá nhân; tránh tình trạng cho thuê nhà, cho mượn nhà, cho ở nhà tuỳ tiện, thậm chí là lợi dụng quy định này để đăng ký hộ khẩu tạm trú, thường trú.
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Bắt heo để thi hành án?. Bài báo phản ánh: Với món nợ chưa tới 20 triệu đồng, cả hai vợ chồng nông dân bị xử tù vì tội không chấp hành bản án. Xung quanh vụ án “lạ” này, còn rất nhiều điều cần bàn luận...
Ông Nguyễn Thế Chinh (ngụ xã Phú Lâm, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai) mượn của bà Vương Thị Nhâm 5 triệu đồng và bà Đinh Thị Dậu 5 triệu đồng (thế chấp bằng máy quay phim) vào giữa năm 1996 để làm ăn. Cuối năm 1997, ông Chinh cùng vợ là Phạm Thị Hường mượn của ông Đinh Văn Thịnh 6 triệu đồng. Ba khổ chủ trên đã kiện ông Chinh ra tòa đòi nợ. Bản án sơ thẩm số 14/DSST ngày 12-12-1996 và 59/DSST ngày 19-9-2000 của TAND huyện Tân Phú buộc ông Chính trả cho bà Dậu cả vốn lẫn lãi 5,7 triệu đồng và bà Nhâm 7 triệu đồng. Bản án số 60/DSST ngày 19-9-2000 buộc ông Chinh - bà Hường trả cho ông Thịnh 9 triệu đồng. Vợ chồng bị đơn vắng mặt trong cả ba lần xử.
Ngày 20-7-1998, Cơ quan thi hành án (THA) huyện Tân Phú ra quyết định (QĐ) cưỡng chế THA, nhưng không thực hiện được. Gần bốn năm sau, vào ngày 17-5-2002, THA Tân Phú tiếp tục ra QĐ số 11/QĐ cưỡng chế THA cùng nhiều thông báo bán đấu giá tài sản của ông Chinh (gồm nhà và đất) nhưng không ai mua. Ngày 25-11-2002, Đội trưởng Đội THA Nguyễn Ngọc Cưỡng ký văn bản bán đấu giá không thành. Gần 6 năm sau, ngày 14-7-2008, chấp hành viên THA Trịnh Thị Trang ký văn bản công bố QĐ số 11/QĐ của THA Tân Phú đã hết thời hiệu, giải tỏa kê biên, trả lại tài sản cho ông Chinh. Cùng ngày 14-7-2008, bà Trang ký QĐ mới số 05/QĐCC-THA, kê biên tài sản của ông Chinh (bàn, ghế, tivi...), đồng thời lên kế hoạch cưỡng chế vào ngày 22-7-2008. Dù nội dung QĐ 05 không đề cập, nhưng bà Trang lại đặt “tầm ngắm” vào đàn heo hơn 10 con của ông Chinh!
Để “thực thi nhiệm vụ” bắt heo, cần phải có một số “công cụ hỗ trợ” như xà beng, cân, đòn (khiêng heo), dây (trói heo)... Thay vì phải làm đề xuất xin cơ quan ứng kinh phí, chấp hành viên Trang “sốt sắng” móc tiền túi tự “trang bị”, kể cả tiền thuê người bắt heo cũng như thuê xe tải để chở heo! Đúng hẹn, bà Trang với đầy đủ “công cụ hỗ trợ”, dẫn đầu đoàn cưỡng chế cùng một lái heo và nhóm thanh niên (do bà Trang thuê) kéo đến nhà vợ chồng ông Chinh. Theo “kế hoạch”, nhóm thanh niên sẽ xông vào bắt heo, cân rồi quăng lên xe, chở đi! Tuy nhiên, việc cưỡng chế bất thành do bà Hường đi chợ, khoá cửa nhà. Để lấy lại số tiền đã bỏ ra, ngày 31-7-2008 bà Trang làm giấy gởi Thủ trưởng Cơ quan THA huyện Tân Phú, đề nghị tạm ứng để “mua xà beng, thuê xe, thuê người bắt heo trong vụ cưỡng chế Nguyễn Thế Chinh ngày 22-7-2008”. Bà Trang ghi rõ thời hạn thanh toán “khi thu được phí cưỡng chế”. Giấy đề nghị này lập tức được “sếp” Nguyễn Ngọc Cưỡng ký duyệt! Ngày 6-8-2008, THA huyện Tân Phú ra QĐ xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Hường nhưng bà Hường không nhận QĐ. Ngay sau đó, THA huyện cử cán bộ ra chợ Phương Lâm dọ giá heo hơi làm cơ sở bán đàn heo của bà Hường cho thương lái sát giá thị trường, để THA. Ngày 2-10-2008, THA tiếp tục tổ chức cưỡng chế nhưng bất thành.
Ngày 28-10-2009, ông Nguyễn Ngọc Cưỡng ký văn bản đề nghị xử lý hình sự vợ chồng ông Chinh. Cơ quan CSĐT huyện Tân Phú đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Chinh vào ngày 16-3-2010, cho bà Hường tại ngoại về tội “không chấp hành án”. Phiên toà sơ thẩm ngày 8-6-2010 do thẩm phán Vũ Linh làm chủ tọa, tuyên phạt bị cáo Chinh 10 tháng tù giam, bị cáo Hường 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “không chấp hành án”. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 13-10-2010, HĐXX TAND tỉnh Đồng Nai tuyên bị cáo Chinh 6 tháng 24 ngày tù (bằng đúng thời gian tạm giam) trả tự do tại phiên tòa và y án (đối với bị cáo Hường). Tại cả hai phiên tòa, hai bị cáo Chinh - Hường liên tục kêu oan. Là người bào chữa cho hai bị cáo, luật sư Trần Hải Đức (Đoàn luật sư TPHCM) đưa ra năm điểm để chứng minh bản án oan sai.
Thứ nhất, cả hai bị cáo đều khẳng định không nhận được các bản án. Đến phần tranh luận, đại diện VKS không chứng minh được việc cơ quan chức năng đã tống đạt cho đương sự hay niêm yết hợp lệ các bản án. Cả ba bản án đều không có bản chính, đại diện VKS tuyên bố các bản án “photo” cũng có hiệu lực THA là trái pháp luật. Thứ hai, ba bản án được tuyên từ năm 1996 - 2000, nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết. Thứ ba, để khởi tố, truy tố về tội “không chấp hành án” theo điều 304 BLHS, đương sự phải bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này (yếu tố bắt buộc). Chỉ bị cáo Hường bị xử phạt hành chính, còn bị cáo Nguyễn Thế Chinh thì chưa có. Vậy lấy cơ sở nào để tuyên án? Thứ tư, HĐXX phúc thẩm triệu tập hai nhân chứng quan trọng để làm rõ việc kêu oan của hai bị cáo Chinh - Hường. HĐXX yêu cầu họ phải khai báo trung thực và chịu trách nhiệm về lời khai trước phiên tòa. Thế nhưng trong phần xét hỏi, HĐXX và đại diện VKS không hề hỏi hai nhân chứng này một câu! Thứ năm, Chấp hành viên Trịnh Thị Trang (lúc này lên chức Quyền Chi cục trưởng Chi cục THA Tân Phú) bộc lộ nhiều sai phạm nghiêm trọng, mang tính cố ý. Cụ thể: ký sao y tài liệu làm chứng cứ vụ án trong khi Cơ quan THA không có chức năng này; thuê người bắt heo, mua xà beng phá cửa nhà ông Chinh... (luật sư đề nghị xử lý hình sự đối với bà Trang).
Luật sư Đức cho biết, lời khai của bị cáo Chinh - Hường cùng lời khai của hai nhân chứng tại phiên tòa đều thể hiện họ không hề biết cũng như nhận được ba bản án; đại diện VKS thừa nhận bản án sơ thẩm có sai sót, rất nhiều vấn đề luật sư nêu ra yêu cầu tranh luận không đối đáp được... Vậy mà HĐXX vẫn tuyên hai bị cáo Chinh, bà Hường phạm tội và giảm án cho bị cáo Chinh! Chính vì thế, ngay sau khi được trả tự do, ông Chinh đã làm đơn kêu oan gởi khắp nơi.
3. Báo Nhân dân điện tử có bài Hiệu quả chương trình trợ giúp pháp lý ở Quảng Ninh. Bài báo phản ánh: Những năm gần đây, hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL) ở tỉnh Quảng Ninh ngày càng được đẩy mạnh và đem lại hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao trình độ nhận thức về pháp luật cho nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở những xã vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.
Trên đường đến xã vùng cao Quảng Lợi, huyện Ðầm Hà, Giám đốc Trung tâm TGPL Nguyễn Hùng Tân cho biết: 'Ðối với đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng sâu, vùng xa, hoạt động TGPL và tuyên truyền phổ biến Luật TGPL đã góp phần nâng cao hiểu biết về quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của đối tượng TGPL. Cùng với sự hiểu biết về pháp luật của người dân được nâng cao, ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật nói chung cũng có những thay đổi tích cực'. Là xã miền núi nằm trong Chương trình 135, điều kiện phát triển kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, song nhờ có sự đổi mới, năng động trong công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy đảng, chính quyền cho nên những năm gần đây, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số trong xã từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới cũng giảm theo từng năm. Chủ tịch UBND xã Quảng Lợi Ty Văn Hải phấn khởi cho biết: 'Cùng với sự nỗ lực, quyết tâm của Ðảng ủy, chính quyền xã thì hoạt động TGPL đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho đồng bào, đồng thời giúp cho việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống ngày càng hiệu quả hơn. Ðến nay, tình hình đơn thư khiếu kiện vượt cấp đã giảm hẳn, không còn các vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài, nhân dân đã yên tâm, đoàn kết cùng nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo'…
…Ðầu năm nay, lần đầu UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định chỉ đạo thực hiện công tác TGPL trên địa bàn tỉnh năm 2011 với tám nội dung quan trọng nhằm tiếp tục tăng cường công tác TGPL ngày càng hiệu quả hơn theo đúng quy định của Luật TGPL, phấn đấu đáp ứng 98% yêu cầu trợ giúp của người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn. Trong đó TGPL lưu động được coi là hoạt động trọng tâm của công tác TGPL trong thời gian tới. Ðây thật sự là tiền đề và động lực mạnh mẽ để tỉnh Quảng Ninh tiếp tục đẩy mạnh công tác TGPL đến với tất cả mọi người dân từ vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo cho đến thành phố. Nhân dân có cơ hội được tiếp cận và nâng cao hiểu biết về pháp luật, ngày càng tin yêu vào sự lãnh đạo của Ðảng, đoàn kết giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng tỉnh Quảng Ninh phát triển bền vững.
4. Báo Người lao động có bài Nên sớm sửa Luật BHXH. Bài báo phản ánh: “Sau hơn 4 năm thực hiện, Luật BHXH cơ bản đã điều chỉnh được những vấn đề liên quan đến an sinh xã hội nhưng cũng bộc lộ nhiều bất cập và đã đến lúc cần sửa Luật BHXH để đáp ứng yêu cầu thực tiễn”. Ông Đặng Như Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, đã nhận xét như vậy sau khi khảo sát việc quản lý và sử dụng quỹ BHXH tại TPHCM (trong hai ngày 15 và 16-2), 4 tỉnh miền Bắc và miền Trung.
Một trong những vấn đề khó khăn đối với các cơ quan BHXH là xác định và quản lý đối tượng phải nộp BHXH bắt buộc. Bà Nguyễn Thị Hiền, Giám đốc BHXH quận 1 – TPHCM, nhìn nhận đến nay, các cơ quan quản lý Nhà nước chưa có số liệu thống kê chính xác số lượng đơn vị, doanh nghiệp (DN) có sử dụng lao động cũng như số lượng người lao động (NLĐ) thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cơ quan có thẩm quyền để xác định đối tượng phải đóng BHXH bắt buộc chưa rõ ràng. Vì vậy, cơ quan BHXH chủ yếu chỉ thu được BHXH theo số lượng lao động mà các DN, đơn vị tự giác đăng ký.
Hiện vẫn chưa có chế tài hiệu quả đối với các DN cố tình chây ì trốn đóng BHXH và chiếm dụng tiền lương tham gia BHXH của NLĐ. Tại TPHCM, đến cuối năm 2010, có tới 19.139 DN, đơn vị, cơ quan, trong đó có cả các DN Nhà nước nợ đọng BHXH của trên 687.100 NLĐ. Tổng số nợ BHXH bắt buộc đến cuối năm 2010 tại TPHCM gần 374 tỉ đồng. “Giải pháp cơ quan BHXH TP cho là hiệu quả nhất là khởi kiện các DN cố tình chây ì, thế nhưng thủ tục hết sức nhiêu khê, phức tạp. Tòa Lao động xử vụ kiện dân sự nhưng trước đó phải có việc xử phạt hành chính của thanh tra lao động. Thậm chí thanh tra lao động xử phạt xong, BHXH đi kiện, tòa không nhận và bảo đã có cơ quan chức năng giải quyết rồi, cứ vậy mà thực hiện, tòa không xử”- ông Sang bức xúc.
Một giải pháp khác là trích trừ tài khoản của DN trả nợ cho BHXH thì DN đối phó bằng cách rút hết tiền trong tài khoản, thậm chí có DN còn cung cấp cho thanh tra lao động tài khoản “đểu”, chỉ còn vài ngàn đồng. Chưa hết, khi thanh tra lao động ra quyết định xử phạt, DN không đóng, thanh tra cũng bó tay. Đơn cử như trường hợp Công ty H&M Vina (quận Tân Phú) không ký HĐLĐ, không tham gia BHXH cho 130 NLĐ suốt 7 năm qua và bị xử phạt 86 triệu đồng nhưng đến nay vẫn không nộp phạt. Bên cạnh đó cũng còn có những quy định không phù hợp thực tế gây thiệt hại cho NLĐ. Chẳng hạn, muốn được hưởng chế độ tai nạn lao động do bị tai nạn giao thông trên đường đi làm thì phải có biên bản tai nạn giao thông do công an lập. Ông Cao Văn Sang tâm tư: “Có trường hợp nhân viên cơ quan BHXH bị tai nạn trên đường đi làm nhưng không có biên bản tai nạn giao thông nên chúng tôi cũng bó tay. Có đến 80% số vụ tai nạn lao động do tai nạn giao thông nhưng NLĐ không có được biên bản tai nạn nên đành chịu thiệt thòi”.
5. Báo Thanh niên phản ánh: UBND TP.HCM hôm qua đã ban hành kế hoạch số 654 giải quyết việc nhập quốc tịch Việt Nam cho người không quốc tịch không có đầy đủ giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định từ 20 năm trở lên trên địa bàn TP. Theo đó, UBND TP chỉ đạo các cơ quan chức năng tổ chức rà soát, thống kê, lập danh sách các cá nhân là người không quốc tịch không có đầy đủ giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định tại các phường, xã, thị trấn trên địa bàn TP từ 20 năm trở lên, tính đến 1.7.2009 và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, trên cơ sở tự nguyện.
Sau đó, hướng dẫn lập hồ sơ nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục quy định; thống kê, lập danh sách hồ sơ, báo cáo Chủ tịch UBND TP đề xuất Bộ Tư pháp xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định. Sau khi có quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam của Chủ tịch nước, TP sẽ tiến hành thủ tục trao Quyết định và cấp các loại giấy tờ hộ tịch, giấy tờ tùy thân cho những người được nhập quốc tịch Việt Nam.