Điểm tin báo chí sáng ngày 28 tháng 01 năm 2010

28/01/2010
Trong buổi sáng ngày 28/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Kinh tế Việt Nam phản ánh: Báo cáo nhanh vừa được Tổ công tác thi hành luật Doanh nghiệp và Đầu tư - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố hôm 22/1 vừa qua, tại Hà Nội, cho thấy: Luật Doanh nghiệp 1999 và 2005 được ban hành đã tạo nên những cú hích lớn cho sự phát triển bùng nổ của các DN khu vực kinh tế tư nhân trong thập niên vừa qua.
Sau 10 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, đến hết năm 2009, số DN đăng ký kinh doanh đã đạt con số 460.000 DN. Nếu chỉ tính về số DN đã đăng ký kinh doanh, thì khu vực này đã tăng tới 15 lần chỉ trong 9 năm (năm 2000 chỉ có khoảng 31.000 DN). Đây là một tốc độ tăng trưởng hết sức ấn tượng, thể hiện sức sống mãnh liệt trong tinh thần kinh doanh của người Việt cũng như những tác động lớn của cải cách về môi trường kinh doanh ở Việt Nam.Tỷ lệ DN đang hoạt động đạt khoảng 50%. Con số thống kê mới nhất từ Tổng Điều tra DN năm 2009, tính đến thời điểm 31/12/2008 cả nước có 178.852 DN dân doanh đang hoạt động, đạt xấp xỉ 50%; Còn theo số liệu của Tổng cục Thuế thì tính đến hết tháng 3/2009, cả nước có 272.680 DN, đạt 73%. Nếu so với mức trung bình trên thế giới, tỉ lệ đó là hoàn toàn bình thường và không thể được coi là một chỉ số phản ánh chất lượng thấp của các doanh nghiệp được đăng ký.
Theo tổng kết của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các DN trên thế giới ra đời phần nhiều là nhỏ, sau 3 năm khoảng 25% DN không tồn tại được. Sau 5 năm, số đó còn khoảng 50%, còn 50% giải thể, chuyển đổi hình thức hoạt động hoặc lĩnh vực hoạt động cách xa với ý tưởng ban đầu của người thành lập DN. Sau 10 năm số tồn tại được chỉ còn 30% tiếp tục phát triển theo đúng con đường của mình. Phần lớn số đó đi từ nhỏ lên quy mô vừa, một số ít lên thành lớn. Sự thay đổi và điều chỉnh này sẽ góp phần giúp cho nguồn lực của xã hội được sử dụng một cách hiệu quả hơn.
Như vậy, nếu đánh giá một cách tổng thể thì chúng ta đều thấy sự khởi sắc trong việc tăng trưởng đăng ký kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân, kể từ sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực thi hành. Chỉ trong vòng 10 năm, số lượng DN thành lập mới đã tăng gấp 8,5 lần so với tổng số DN được thành lập trong 10 năm thực hiện Luật Công ty và Luật DN (từ 1991-1999). Điều đặc biệt là số lượng DN đăng ký kinh doanh mới luôn có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, kể cả trong hai năm khó khăn, khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì số lượng DN đăng ký kinh doanh mới cũng không hề suy giảm, trong hai năm 2008-2009, ước tính vẫn có tổng cộng gần 150 ngàn DN đăng ký mới.Nếu so sánh với các loại hình DN khác thì khu vực DN tư nhân có số lượng tăng ấn tượng nhất. Chẳng hạn: trong dữ liệu của Tổng cục Thống kê, sau 9 năm thì số lượng DN dân doanh đã tăng gấp 5,63 lần (tổng số DN cả nước tăng 4,76 lần, khối các DN FDI tăng 3,69 lần, DNNN giảm 1,69 lần). Có thể nói rằng, chính các DN tư nhân đã tạo nên sự tăng trưởng chính về mặt số lượng cho các DN Việt Nam. Cho tới nay, Việt Nam đã đạt được tỷ lệ 5 DN/1.000 dân và đang tiệp cận dần tới mức trung bình là 9-10 DN/1.000 dân của nhiều nước khác trong khu vực.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Ngày 27.1, Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) VN đã tổ chức tọa đàm lấy ý kiến góp ý cho Bộ Luật Lao động, đảm bảo bình đẳng giới và đặc thù giới tính nữ.
 Theo Ban Chính sách pháp luật (Hội LHPN VN), hiện tại quy định tuổi nghỉ hưu của nữ 55 và nam 60 là không đảm bảo quyền bình đẳng trong lao động của nam và nữ. T.Ư Hội LHPN dự kiến đề xuất, sẽ không quy định tuổi nghỉ hưu mà nên quy định tuổi lao động từ khi bắt đầu đến khi kết thúc cho mọi lao động, không phân biệt nam nữ, khu vực lao động.
Cả lao động nam và nữ đều có quyền lựa chọn kết thúc tuổi lao động trước từ 1 đến 5 năm so với quy định. Ngoài ra, nên có quy định cứng mọi hợp đồng lao động đối với lao động nữ là hợp đồng không xác định thời gian (trừ công việc theo mùa vụ). Với quy định hiện hành, quyền lợi của lao động  nữ chưa đảm bảo vì hợp đồng lao động với nam-nữ là như nhau. Vì vậy, lao động nữ thường chỉ được ký hợp đồng ngắn hạn, dễ bị kết thúc khi nghỉ sinh sản, đơn vị sử dụng lao động không thực hiện các trách nhiệm liên quan đến việc mang thai, sinh con của lao động nữ.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 27-1, phát biểu tại hội nghị tổng kết ngành y tế năm 2009 tại TP Huế, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Quốc Triệu cho biết: Quy mô dân số của Việt Nam đến thời điểm tháng 4-2009 là 85.789.573 người.
Mỗi năm Việt Nam tăng thêm 974.000 người. Hiện tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm từ 20,8% năm 2005 xuống còn 16% năm 2009. Chất lượng dân số được cải thiện từng bước cả thể chất, trí tuệ và tinh thần...
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 27-1, tại Hà Nội, Ngân hàng Thế giới (WB) đã tổ chức hội thảo Triển vọng kinh tế toàn cầu - Cơ hội và thách thức kinh doanh 2010.
Báo cáo viễn cảnh kinh tế thế giới năm 2010 cho rằng quá trình phục hồi của nền kinh tế thế giới sẽ chậm lại vào cuối năm do tác động của việc cắt giảm các gói kích cầu trong phạm vi toàn cầu. Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam sẽ phải đối mặt với chi phí cho vay cao hơn, hạn mức tín dụng thấp hơn và dòng vốn quốc tế giảm.
Các chuyên gia của WB dự báo GDP toàn cầu năm 2010 sẽ tăng 2,7% và đạt mức 3,2% vào năm 2011. Các nước đang phát triển có viễn cảnh phục hồi tương đối mạnh, tốc độ tăng trưởng 5,2% trong năm nay và tăng lên 5,8% trong năm 2011. Khu vực Đông Á - Thái Bình Dương dẫn đầu trong sự phục hồi, phản ánh các chính sách tài chính mạnh và nhu cầu nội địa cao. Nhận xét về những triển vọng này sẽ có tác động đối với Việt Nam như thế nào, ông Hans Timmer, Giám đốc nhóm Triển vọng phát triển của WB, cho rằng: Việt Nam là nền kinh tế mới nổi và có rất nhiều tiềm năng tăng trưởng. Để có thể tận dụng được các cơ hội trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam nên thực hiện chính sách như các nước đang thực hiện để nâng cao năng lực cạnh tranh. Những thành công của nền kinh tế Đông Á trong quá trình phục hồi đơn giản không phải là vì có các chương trình kích thích kinh tế mà điều quan trọng hơn là gói kích thích kinh tế đó nhằm vào tăng trưởng năng suất và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và kết quả là tạo ra các đầu tư mới. Chính vì thế mà họ có thể đạt được mức tăng trưởng cao và tạo ra được những cơ hội mới cho các nền kinh tế có thu nhập cao. Quan trọng là Chính phủ phải có được những chính sách để có thể tiếp nhận được các cơ hội mới.
Theo PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, những điểm yếu mà hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt là cấu trúc thị trường nước ta còn kém phát triển và chưa đồng bộ; các thị trường đầu vào và nguồn lực cơ bản nhất có trình độ phát triển thấp; và nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, mặc dù khu vực doanh nghiệp linh hoạt nhưng còn yếu và độ liên kết còn thấp, khi đối mặt với khủng hoảng năng lực quản trị còn thấp so với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử tin nhanh công nghệ thông tin có bài Đằng sau những vị trí xếp hạng. Bài báo phản ánh: Kết quả khảo sát, đánh giá xếp hạng website, cổng thông tin điện tử của các bộ ngành và địa phương mà Bộ TT&TT vừa công bố không cho thấy sự thay đổi đột biến trong thứ tự của các bộ ngành, địa phương.
Ở khối địa phương, đứng đầu trong việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến vẫn là TP. HCM. Thành phố có cổng thông tin điện tử vào loại sớm nhất cả nước, có số lượng dân cư đông nhất nước và có những lợi thế đặc biệt trong phát triển và ứng dụng CNTT nên việc đứng đầu và duy trì vị trí này trong nhiều năm qua, cũng như có lượng truy cập lớn nhất, không gây nhiều ngạc nhiên. Số lượng 3.841 dịch vụ công đang được cung cấp trực tuyến, trong đó có 15 dịch vụ công ở mức độ 3 (cho phép điền và gửi trực tuyến các mẫu đơn, hồ sơ trực tuyến) là những kết quả đáng ghi nhận cho TP. HCM. Nhưng số lượng các dịch vụ công lên đến gần 4 ngàn như thế cũng có nghĩa là còn rất nhiều thủ tục hành chính và không ít thủ tục đang hàng ngày “hành” người dân và doanh nghiệp. Nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi số lượng những dịch vụ công đó cần phải được giảm bớt nhanh chóng, chứ không đơn thuần là chuyển đổi hình thức từ “túc công” sang “trực tuyến”.
Hà Nội cũng thể hiện rõ những lợi thế trong ứng dụng và phát triển CNTT của Thủ đô khi đứng ở vị trí thứ hai và cung cấp 2.262 dịch vụ công trực tuyến. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát, xếp hạng về chỉ số đánh giá độ hấp dẫn của website, số lượng truy cập của Hà Nội đứng ở vị trí thứ 34/60 website và không có sự thay đổi so với năm trước. Con số hơn 2 ngàn dịch vụ công mà Hà Nội đang cung cấp không thể hiện được nhiều ý nghĩa. Nhiều dịch vụ công trực tuyến chưa hẳn đã là tốt, quan trọng hơn là những dịch vụ đó có thực sự hấp dẫn và mang lại lợi ích thiết thực, tiết kiệm thời gian, tiền bạc và hiệu quả cho người dân và doanh nghiệp hay không. Hà Nội, trong những ngày rất gần đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội vẫn còn rất nhiều việc phải làm trong việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong lĩnh vực hành chính công, để thực sự trở thành một chính quyền điện tử vì dân.
Kết quả xếp hạng các website, cổng thông tin điện tử của khối các bộ ngành cũng phản ánh tương đối chính xác thực tế ứng dụng CNTT của các cơ quan trung ương cũng như sự quan tâm của người dân trong lĩnh vực quản lý của các cơ quan đó. Sau năm học ứng dụng CNTT, Bộ GD&ĐT đã có những tiến bộ đáng kể trong việc cung cấp thông tin trực tuyến đến cho xã hội, khi chiếm vị trí số 1 trong kết quả xếp hạng chung và thay vị trí của Bộ Tài chính.
Xét ở yếu tố số lượng người truy cập, website của Bộ Tư pháp lại có số lượng truy cập lớn nhất. Chưa rõ lý do gì khiến website của Bộ Tư pháp lại hấp dẫn người dùng online đến vậy, nhưng chắc hẳn không phải là do nhu cầu và mong muốn tìm hiểu và nâng cao kiến thức của người dân tăng lên khiến cho lượng truy cập tăng cao.
Khảo sát của Bộ TT&TT cho thấy số lượng các địa phương cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3 đã tăng gấp 3 lần so với lần khảo sát trước, trong đó những địa phương thuộc diện vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Bình Phước lại cung cấp lượng dịch vụ công mức độ 3 nhiều nhất. Hẳn rằng, bên cạnh quyết tâm đẩy mạnh ứng dụng CNTT của chính quyền các địa phương đó thì tác động và hiệu quả từ Đề án 30 đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ trong giai đoạn vừa qua. Hy vọng việc triển khai Đề án 30 trong giai đoạn 2 sẽ còn tạo những hiệu ứng tích cực hơn nữa trong việc cung cấp dịch vụ công của các cơ quan Nhà nước.
2. Báo Nhân dân có bài Luật sư tập sự: Không cho xuống nước sao thành kình ngư?. Bài báo phản ánh: Để phục vụ đắc lực công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, việc nâng cao vị thế của luật sư Việt Nam trong giới luật sư nước ngoài, tăng cường tham gia tranh tụng tại các toà án mang tầm quốc tế là đòi hỏi cấp thiết. Học là một chuyện, môi trường hành nghề cho LS tập sự đang đầy trở ngại.
LS tập sự - đối tượng kế cận cho hàng ngũ LS hiện đang ngày càng tăng về số lượng ( năm 2008: khoảng 1400 LS tập sự, năm 2009: khoảng 2200 LS tập sự) song chất lượng còn là điều đáng bàn. Bởi lẽ nhiều trường hợp sau khi hoàn thành khoá học sáu tháng, họ chỉ đăng ký tập sự về mặt hình thức kiểu “đánh trống ghi tên” hoặc tập sự nghiêm túc thì cũng không có nhiều cơ hội trau dồi kỹ năng, kiến thức đã được học, hay được va chạm với vụ việc thực tiễn. Có những LS tập sự thi xong chứng chỉ sau khi hết thời gian tập sự 18 tháng, cũng chưa biết ra toà thì phải làm gì, và làm thế nào. dù được phép ...hành nghề luôn.
Tình trạng một LS hướng dẫn nhận quá nhiều người tập sự vẫn còn tốn tại nên việc hướng dẫn, tạo ý thức trách nhiệm cũng như đạo đức nghề nghiệp cho người tập sự chưa chú trọng nhiều. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tập sự hành nghề LS. Do chưa có một văn bản quy định cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của người tập sự nên LS hướng dẫn, tổ chức hành nghề LS nhận tập sự, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của LS gặp nhiều khó khăn trong việc xác định những công việc nào người tập sự được thực hiện và những công việc nào người tập sự không được thực hiện.
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp ( Bộ Tư pháp) Nguyễn Văn Bốn:  Luật Luật sư năm 2006 quy định người tập sự hành nghề LS được giúp LS hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Nói cách khác, họ chỉ được cắp cặp theo thầy. Nhiều người tập sự hành nghề luật sư than thở về việc trải qua 18 tháng tập sự mà không học được gì vì không được luật sư hướng dẫn hay tổ chức hành nghề tạo điều kiện. Vì vậy cần có quy chế riêng quy định rõ về quyền và nghĩa vụ đối với LS tập sự trong thời hạn học nghề của mình.
Còn PGS.TS.LS Phạm Hồng Hải – Phó Chủ tịch Liên đoàn LS Việt Nam nhận xét:Không cho người tập sự hành nghề LS được tham gia trực tiếp một số hoạt động nghề nghiệp là gây khó khăn cho họ. Đã tập sự là phải làm thì mới tích lũy được kinh nghiệm. Quan điểm của tôi là đầu vào rất “nhẹ nhàng’, ai có nhu cầu là được tham dự, nhưng đầu ra phải chặt. Vấn đề rất mâu thuẫn là không cho hành nghề trong thời gian tập sự nhưng lại cho phép hành nghề LS ngay sau khi kết thúc thời gian tập sự và có chứng chỉ hành nghề (được thành lập văn phòng, công ty).
LS Hải cho rằng nên có quy định về điều kiện đối với các tổ chức hành nghề LS khi tiếp nhận LS tập sự. Ít nhất họ phải hành nghề ba năm mới hướng dẫn người khác và phải tiến tới sửa luật để qui định một LS chỉ được mở một văn phòng sau khi làm việc từ ba đến năm năm cho một  tổ chức hành nghề LS và được sự nhận xét của tổ chức đó là đủ điều kiện để mở văn phòng hành nghề độc lập. Việc cho phép thành lập tổ chức hành nghề LS hàng loạt như hiện nay không đảm bảo chất lượng dịch vụ pháp lý mà các LS cung cấp cho xã hội".
LS Nguyễn Văn Chiến – Văn phòng LS Nguyễn Chiến cho biết: "Văn phòng chúng tôi hiện có 17 LS tập sự và chúng tôi cũng hết sức cố gắng hỗ trợ cho các em để họ có điều kiện trau dồi kiến thức, kỹ năng cũng như kinh nghiệm. Song có một thực tế nói chung hiện nay là, số lượng LS tập sự ngày càng đông song không tỷ lệ thuận về mặt chất lượng. Điều này do rất nhiều nguyên nhân. Hiện nay, chưa có bất cứ quy định nào về tiêu chí cụ thể về chuyên môn như phải tham gia bao nhiêu vụ án, những loại án gì, thời gian tập sự thường xuyên là bao nhiêu để sau thời gian tập sự tham gia sát hạch lấy chứng chỉ hành nghề, ngoài mốc thời hạn 18 tháng tập sự.. Vì vậy, nhiều LS tập sự chỉ chuyên về một lĩnh vực như tư vấn hay tranh tụng dân sự..., đó là chưa kể đến chuyện có những người “đánh trống ghi tên” hết 18 tháng tập sự vác hồ sơ đi thi mà chẳng hiều gì về những quy định cơ bản cả. Trong khi có nhiều người tập sự vững về chuyên môn lại bị “vướng” về thời hạn 18 tháng này nên khó có thể hành nghề ngay. Do đó, cần có quy định linh hoạt chứ không nên áp khung về thời hạn tập sự".
Theo LS Chiến, Luật LS không quy định cho họ được tham gia đại diện ngoài tố tụng tại toà án hoặc các cơ quan hữu quan dù đây là một quyền dân sự, điều này hạn chế khả năng cọ xát thực tế của những người tập sự. Trong khi đó, nhiều văn phòng và LS chính thức không có thời gian cũng như chưa đủ kinh nghiệm để hướng dẫn cho người tập sự. Có những LS vừa mới thoát khỏi cảnh tập sự đã được quyền đi ...hướng dẫn người khác. LS Chiến góp ý, Dự thảo mới nên quy định cho người tập sự hành nghề LS được tham gia cùng LS hướng dẫn tại các buổi tiếp xúc bị can, bị cáo tại trại giam, thu thập chứng cứ, tài liệu ở các cơ quan có liên quan chứ không chỉ bó hẹp ở việc theo LS ra toà. Tức là phải có cơ chế bảo đảm cho LS tập sự được cùng LS hướng dẫn tham gia xuyên suốt các phần việc khi giải quyết vụ việc. Có như thế mới bảo đảm được chất lượng của đội ngũ LS kế cận.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh trong mắt người nước ngoài: phục vụ tốt hơn trước. Bài báo phản ánh: Đầu năm 2010, Sở Tư pháp TP.HCM khảo sát mức độ hài lòng của người dân khi giao dịch ở đây. Kết quả 90% người dân hài lòng… Tuy nhiên, Sở chỉ thăm dò công dân trong nước trong khi hằng ngày Sở tiếp nhận rất nhiều công dân nước ngoài đến giao dịch…Người nước ngoài đánh giá thế nào về công tác phục vụ của Sở? Chúng tôi có cuộc khảo sát nhỏ khi họ đến giao dịch…
Brendan Venturo (Sydney, Úc): Hôm nay, tôi đến Sở Tư pháp TP.HCM nhờ dịch tài liệu để khai quốc tịch cho con gái. Tôi sống ở Việt Nam được ba năm rồi, con gái tôi sẽ mang hai quốc tịch của cha lẫn mẹ. Tôi thấy cách phục vụ của Sở tốt hơn nhiều so với hồi tôi đến đây lần đầu để phỏng vấn kết hôn. Nhân viên phục vụ nhanh hơn, thái độ của họ rất thiện chí, tôi khá hài lòng.
Kobayashi Masaaki (TP Nagoya, Nhật Bản): Tôi và bạn gái quen nhau ở Nhật Bản vì cô ấy qua đó làm nghiên cứu sinh. Chúng tôi mới tổ chức lễ cưới vào ngày 24-1, giờ đến đây để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Thủ tục xong xuôi, chúng tôi sẽ qua Nhật sống. Tôi và vợ yêu nhau đã ba năm, thế nhưng khi bước chân đến đây lại thấy hồi hộp quá! Cũng may là cán bộ cũng chỉ hỏi tôi về hoàn cảnh gia đình, công việc, lương bổng và mối quan hệ của hai bên gia đình. Tôi trả lời trơn tru, chắc là đạt nhỉ? Điều đáng ghi nhận là tôi không thấy bị làm khó, cũng như cán bộ không có thái độ hách dịch. Tôi vẫn mong cán bộ ở đây cười nhiều hơn một chút. Tôi thấy họ đều rất trẻ nhưng có vẻ nghiêm quá. Nếu họ niềm nở hơn thì những người như tôi sẽ thấy đỡ căng thẳng hơn.
Jason Costa (bang Massachusett, Mỹ): Tôi thấy cán bộ ở Sở Tư pháp TP.HCM rất thân thiện. Ngay ở bàn bấm phiếu thứ tự, các anh bảo vệ đã hướng dẫn rất nhiệt tình. Điều này khác hẳn với một cơ quan nhà nước khác cũng ở TP.HCM mà tôi vừa ghé cách đây mấy ngày. Tuy nhiên, tôi cảm thấy phiền toái vì không được hướng dẫn trước. Sáng 8 giờ tôi đã đến đây nhưng ngồi chờ đến gần 11 giờ trưa mới được mời vào phỏng vấn kết hôn. Cán bộ hỏi chúng tôi có đem theo ảnh chụp chung không. Điều này chúng tôi không biết trước. Không có ảnh đem theo, thế là họ bảo phải về nhà lấy bổ sung. Lúc đó đã cuối giờ làm việc buổi sáng nên chúng tôi phải quay lại Sở vào đầu giờ làm việc buổi chiều. Nếu cần xem ảnh chụp, ảnh kỷ niệm gì thì nên ghi hẳn vào thành phần hồ sơ để chúng tôi không phải chạy đi chạy về mất thời gian.
Để những người ngoại quốc khác không phải bỡ ngỡ khi đến Sở Tư pháp TP.HCM làm thủ tục, tôi nghĩ Sở nên lập một hotline (đường dây nóng) để giải đáp thắc mắc. Nghe nói Sở có trang web để hướng dẫn thủ tục, hồ sơ. Thế nhưng trang web chỉ bằng tiếng Việt, người nước ngoài như tôi khó tra cứu.
Trần Văn Tân:Thỉnh thoảng có người quen nhờ tôi đến Sở Tư pháp TP.HCM phiên dịch khi phỏng vấn kết hôn. Cũng có khi tôi tới đây để xin giấy tờ về việc khác. Mỗi lần tôi có thắc mắc gì thì đều được nhân viên hướng dẫn tận tình. Tuy nhiên, lần nào lên Sở cũng phải ngồi chờ, chắc lượng người đến giao dịch đông quá.
Báo cũng có bài Cần có Luật về Phản biện xã hội. Bài báo phản ánh: Sửa Luật Bầu cử để dân kiểm soát được đại biểu của mình và đại biểu phải có trách nhiệm với dân. “Tôi rất mong muốn Mặt trận sớm đưa ra sáng kiến về dự án Luật Phản biện xã hội và tham vấn nhân dân để nâng cao hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận đã được Nghị quyết Đại hội X đề cập”. GS-TS Trần Ngọc Đường, chuyên gia cao cấp của Quốc hội, đã đề nghị như vậy tại Hội nghị lần thứ hai Ủy ban Trung ương MTTQ VN khóa VII tổ chức tại TP.HCM ngày 27-1.
“Hai vấn đề phản biện xã hội và tham vấn nhân dân là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của xã hội. Việc này là để người dân có thể tham gia vào các quyết định của nhà nước. Một trong những đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là đổi mới phương thức ra các quyết định của nhà nước. Các quyết sách có sự tham vấn ý kiến của nhân dân và phản biện của Mặt trận. Thế mới là dân chủ và tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội” - ông Đường nhấn mạnh.
Theo ông Vũ Trọng Kim, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ VN, trong năm qua, Mặt trận tiếp tục tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. “Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế trong việc phối hợp tham gia vào xây dựng cơ chế, chính sách liên quan trực tiếp đến quyền lợi của công nhân, nông dân. Hoạt động giám sát của MTTQ chưa có chuyển biến rõ nét, chưa huy động được đông đảo nhân dân chủ động và tích cực tham gia đấu tranh, phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hiện cải cách hành chính” - ông Kim thẳng thắn.
GS-TS Nguyễn Ngọc Đường cũng cho rằng đường lối, tư duy, lý luận kinh tế của chúng ta đã có bước đổi mới cách mạng nhưng phương thức lãnh đạo vẫn chưa đổi mới nên dễ dẫn đến sự tha hóa quyền lực của nhà nước. “Để tránh tình trạng này, ngoài cơ chế kiểm soát trong nội bộ từ các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cần có cơ chế kiểm soát từ bên ngoài. Mặt trận phải làm việc đó” - ông nhấn mạnh.
Theo ông Đường, phải sửa Luật Bầu cử để dân kiểm soát được đại biểu của mình và đại biểu phải có trách nhiệm với dân. “Làm đại biểu Quốc hội theo đúng luật khó lắm! Nhưng làm đại biểu như hiện nay thì quá dễ. Có những đại biểu cả nhiệm kỳ chẳng phát biểu gì nhưng vẫn không sao. Vì vậy, việc bầu cử phải thông qua Mặt trận một cách thực chất để tạo cơ chế pháp lý cho người dân kiểm soát quyền lực của nhà nước” - ông Đường nói.
GS-TS Nguyễn Đăng Dung cũng cho rằng chính quyền hiện nay đang thiếu hụt một phía độc lập để chỉ ra những khuyết tật trong các quyết định của mình. “Mặt trận có thế mạnh đứng phía sau là lực lượng đông đảo trí thức và các nhà khoa học. Cần kêu gọi họ tham gia vào hội đồng tư vấn của Mặt trận và phải phát triển được vị trí, vai trò hội đồng tư vấn để Mặt trận đóng vai trò tốt bù đắp vào sự thiếu hụt hiện nay” - ông Dung nói.


File đính kèm