I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
Nhân dân đưa tin: Ngày 27-12, tại TP Buôn Ma Thuột (Ðác Lắc) Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức tổng kết mười năm thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về "Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010". Dự và chỉ đạo hội nghị, có Ðại tướng Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên; các đồng chí trong Ban Chỉ đạo Tây Nguyên; các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư các tỉnh Tây Nguyên, lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương... Kết luận hội nghị, đồng chí Lê Hồng Anh nêu rõ: Việc ổn định và phát triển vùng Tây Nguyên phải đặt trong tổng thể chung của cả nước, trực tiếp gắn với khu vực trọng điểm miền trung, Ðông Nam Bộ, khu vực 'Tam giác phát triển' Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia và là nhân tố quan trọng góp phần ổn định và phát triển của đất nước. Tây Nguyên phải vừa khai thác nội lực, phát huy ý chí tự lực tự cường của cả hệ thống chính trị và đồng bào các dân tộc, phải vừa có sự lãnh đạo toàn diện và đầu tư tương xứng của Ðảng, Nhà nước và phải vừa có sự chia sẻ, liên kết, hỗ trợ kịp thời của các tỉnh, thành phố trong khu vực và cả nước. Phát triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững phải trên nền tảng bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới.
Báo cũng đưa tin: Ngày 27-12, Liên ngành Công an và Giao thông vận tải TP Hà Nội vừa ban hành kế hoạch phân luồng giao thông phục vụ Ðại hội Ðảng lần thứ XI và Tết Nguyên đán Tân Mão. Theo kế hoạch này, từ ngày 10 đến 19-1-2011, các xe tải, xe khách không được hoạt động trên tuyến đường Mễ Trì, Phạm Hùng (từ ngã tư Mễ Trì - Phạm Hùng), Ðỗ Ðức Dực.
Các phương tiện trên đi thẳng đường Trần Duy Hưng - đại lộ Thăng Long phải đi qua hầm chui. Lực lượng liên ngành sẽ bố trí các chốt trực để phân luồng giao thông tại khu vực ngã tư Mễ Trì - Phạm Hùng, nút giao thông Trần Duy Hưng - Phạm Hùng - Khuất Duy Tiến - đại lộ Thăng Long, ngã ba đại lộ Thăng Long - Lê Quang Ðạo.
Trong dịp Tết Nguyên đán Tân Mão, thành phố tổ chức phân luồng giao thông từ xa từ ngày 26-1 đến 17-2-2011 (tức từ ngày 23 tháng Chạp đến ngày 15 tháng Giêng), để hạn chế tình trạng ùn tắc giao thông trong nội đô. Phương án cụ thể như sau; từ 6 giờ đến 21 giờ hằng ngày, các loại ô-tô tải từ một tấn trở lên và xe chở khách từ 25 chỗ trở lên không được dừng, đỗ, hoạt động trên các tuyến phố từ vành đai 2 trở vào và trên các tuyến đường có nguy cơ ùn tắc giao thông cao. Các xe ô-tô tải, xe chở khách từ phía nam cầu Vĩnh Tuy, cầu Thanh Trì qua sông Hồng và ngược lại đi theo đường đê Nguyễn Khoái - Minh Khai, Tam Trinh, Pháp Vân, quốc lộ 1. Các xe ô-tô tải, xe chở khách từ quốc lộ 1, quốc lộ 6, quốc lộ 32 sang phía bắc đi theo các đường Ngọc Hồi, Phan Trọng Tuệ, Cầu Bươu, Phúc La - Lê Trọng Tấn (Hà Ðông) - đường trục phía bắc Hà Ðông - Lê Văn Lương kéo dài - Khuất Duy Tiến - Phạm Hùng - Phạm Văn Ðồng hoặc đường 70 - đại lộ Thăng Long - quốc lộ 21 - quốc lộ 32 và ngược lại. Trên đường vành đai 3 (Nghiêm Xuân Yêm - Nguyễn Xiển - Khuất Duy Tiến - Phạm Hùng - Phạm Văn Ðồng) xe tải có trọng lượng lớn hơn 0,5 tấn chỉ được hoạt động từ 9 giờ đến 15 giờ hằng ngày và từ 21 giờ hôm trước đến 6 giờ hôm sau...
2. Báo Dân Việt có bài Nguyên Chủ tịch tỉnh Hà Giang thoát vòng lao lý. Bài báo đưa tin: Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Giang vừa hoàn tất kết luận điều tra (lần hai) vụ án Sầm Đức Xương mua dâm học trò. 16 cá nhân trong bản “danh sách đen” được cho là không đủ cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự.
Liên quan đến bản “danh sách đen” mà hai bị cáo học trò Nguyễn Thị Hằng và Nguyễn Thị Thanh Thúy khai ra trong phiên xử phúc thẩm ngày 27-1-2010, kết luận điều tra nêu rõ: Các bị cáo đã khai ra 16 cá nhân liên quan đến đường dây mua dâm học trò do Sầm Đức Xương cầm đầu. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, điều tra đối với từng trường hợp.
Kết luận điều tra cũng cho hay, ngoài ông Nguyễn Trường Tô, nhiều cá nhân khác bị tố cáo có hành vi mua dâm là những cán bộ đang công tác tại các cơ quan của tỉnh Hà Giang. Trong đó, có một cán bộ ở phòng Tổ chức Công an tỉnh Hà Giang; ông Lê Minh T. - cán bộ hải quan cửa khẩu Thanh Thủy… Những cá nhân này cũng bị tố cáo đã mua dâm nhiều lần đối với Hằng, Thúy và các nữ sinh khác.
Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra trong một thời gian dài, gia hạn điều tra tới ba lần. Cuối cùng cơ quan điều tra đã kết luận: Không đủ chứng cứ để chứng minh 16 cá nhân bị tố cáo mua dâm đã có hành vi mua dâm người chưa thành niên. Do đó, không đủ bằng chứng để xem xét trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng. Kết luận điều tra cũng cho hay, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Giang đã có công văn kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý các đối tượng trên theo quy định.
Tuy nhiên dư luận đặt câu hỏi: Khi đã kết luận không đủ bằng chứng để xem xét trách nhiệm hình sự thì cơ quan điều tra kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý các đối tượng bị tố cáo mua dâm về hành vi gì?
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Thời báo Kinh tế Sài gòn có bài Bồi thường Nhà nước: Kinh nghiệm gì cho Việt Nam? Bài báo phản ánh: Việc một người dân TPHCM khởi kiện cơ quan phụ trách giao thông và công chính thành phố vì Việc một người dân TPHCM khởi kiện cơ quan phụ trách giao thông và công chính thành phố vì thiệt hại kinh tế do lô cốt gây ra thu hút sự chú ý của đông đảo các giới. Công chúng chờ đợi kết cục về trách nhiệm đối với những bất ổn an sinh họ đang gánh chịu. Còn với các luật gia, vụ án này sẽ đánh dấu sự tiến bộ (hay không) của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Việt Nam.
Cho đến nay, số vụ kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Việt Nam xảy ra ít, thông thường chỉ xảy ra trong một số lĩnh vực như tai nạn giao thông, xây dựng công trình dân dụng... chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong các tranh chấp dân sự.
Điều này trái ngược với tỷ lệ thực tế tại các nước phát triển. Lấy ví dụ tại Nhật Bản, số vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chiếm hơn 60% tổng số tranh chấp dân sự. Hơn 30% còn lại chia cho các tranh chấp hợp đồng, hưởng lợi không có căn cứ chính đáng và thực hiện công việc không có ủy quyền.
Vài kinh nghiệm từ Nhật Bản
Một trong những bị đơn thường xuyên trong các vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại các nước phát triển là nhà nước hoặc cơ quan nhà nước như chính quyền địa phương. Họ trở thành bị đơn vì đã được xã hội giao cho các quyền (nghĩa vụ) thực hiện công việc nhất định như cấp phép, bảo đảm chất lượng cuộc sống, xây dựng công trình công cộng... nhưng đã không hoàn thành những công việc này mà còn gây thiệt hại cho người khác.
Lấy ví dụ tại Nhật Bản, từ năm 1947 nước này đã ban hành Luật về bồi thường nhà nước (Kokka baisho ho) quy định về những trường hợp nhà nước phải bồi thường. Cụ thể điều 1.1 luật này quy định: “Khi thực thi công vụ, nếu một quan chức chính quyền có hành vi vi phạm, dù cố ý hoặc vô ý, mà gây thiệt hại cho người khác thì nhà nước hoặc cơ quan có liên quan phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Điều 2.1 luật này quy định: “Trong trường hợp có khiếm khuyết khi xây dựng hoặc quản lý đường sá, sông ngòi và các cơ sở công cộng khác mà gây thiệt hại cho người khác thì nhà nước hoặc cơ quan có liên quan phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
”Như vậy, luật này có hai nội dung lớn liên quan đến trách nhiệm bồi thường của nhà nước/cơ quan nhà nước. Thứ nhất, nhà nước phải chịu trách nhiệm đối với các hành vi sai trái của nhân viên của mình. Thứ hai, nhà nước phải chịu trách nhiệm đối với tài sản của mình.
Điều đáng lưu ý khác ở đây là điều 2.1 Luật về bồi thường nhà nước của Nhật Bản mặc nhiên thừa nhận nhà nước/cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm ngay cả khi họ không có lỗi khi tranh chấp liên quan đến khiếm khuyết của công trình công cộng. Tức là, nguyên đơn sẽ không phải chứng minh rằng người vi phạm cố ý hay buộc phải biết rằng hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác.
Sau khi được ban hành, Luật về bồi thường nhà nước được áp dụng trong nhiều vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Dường như không có vụ nào giống như “lô cốt” tại Việt Nam (người viết bài đã chứng kiến 6 năm cuối xây dựng một tuyến tàu điện ngầm tại một thành phố và nhận thấy đã không hề xảy ra hiện tượng ùn tắc giao thông, gây ra hố “tử thần”, gây ngập úng hay thậm chí bụi bặm cho đường phố khi thi công công trình này). Nhưng số vụ kiện về trách nhiệm nhà nước thì rất nhiều.
Nổi tiếng nhất có lẽ là vụ SMON năm 1977, viết tắt của bệnh lý “subacute myel-optico neuropathy”. Hơn 5.000 nguyên đơn khởi kiện bị đơn gồm các công ty Ciba-Geigi, Japan Ltd., Takeda Chemical Industries Ltd., Tanabe Seiyaku Co. Ltd. và Chính phủ Nhật Bản. Nguyên đơn khởi kiện các công ty này vì loại thuốc có tên gọi Clioquinol gây ra bệnh cho hệ thống thần kinh của họ, và khởi kiện Chính phủ Nhật Bản vì đã cấp phép lưu hành thuốc này.
Chín tòa khu vực gồm Tokyo, Kanazawa, Fukuoka, Hiroshima, Sapporo, Kyoto, Shizuoka, Maehashi và Osaka đều tuyên phần thắng thuộc về nguyên đơn. Bị đơn là các công ty bị tuyên phải bồi thường vi phạm ngoài hợp đồng theo điều 709 Bộ luật Dân sự, còn Chính phủ Nhật Bản bị tuyên vi phạm theo Luật về bồi thường nhà nước khi cấp phép lưu hành thuốc.
Một vụ khác là về bệnh Minamata (bệnh ngộ độc thủy ngân) bắt đầu từ năm 1959. Nhiều người tại vịnh Minamata thuộc tỉnh Kumamoto khi ăn cá hoặc sò đánh bắt tại khu vực này bị các chứng bệnh rối loạn thần kinh và sau đó tử vong. Sau quá trình điều tra lâu dài, kết luận nguyên nhân của bệnh là do việc thải thủy ngân của Công ty Chisso. Các nguyên đơn đã khởi kiện Công ty Chisso và chính quyền tỉnh Kumamoto. Chisso bị khởi kiện do vi phạm quy định cấm xả chất độc hại theo quy chế phối hợp ngư nghiệp tỉnh Kumamoto; còn chính quyền tỉnh Kumamoto là đồng bị đơn do không thực thi thẩm quyền (nhiệm vụ) ngăn ngừa sự lan rộng của chứng bệnh như được quy định tại Luật Bảo tồn chất lượng nước tại khu vực nước công cộng, và Luật Kiểm soát xả thải nhà máy.
Khi không thực thi thẩm quyền này, hành vi của chính quyền/quan chức bị coi là vi phạm điều 1.1 Luật về bồi thường nhà nước. Sau nhiều cấp xét xử, cuối cùng ngày 15-10-2004 Tòa án Tối cao Nhật Bản tuyên Chisso và chính quyền tỉnh Kumamoto phải chịu trách nhiệm và phải bồi thường cho các nạn nhân với mức bồi thường là 320 triệu yen Nhật.
Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Như có thể thấy, việc nhà nước Nhật Bản bồi thường cho dân chúng không làm cho nhà nước trở nên yếu đi. Ngược lại, người dân sẽ tin tưởng hơn vào tính chịu trách nhiệm của chính quyền, hiệu quả của quy định pháp luật và tính nghiêm minh của tòa án. Về phần mình, cơ quan chính quyền sau khi thực hiện bồi thường cũng có quyền truy trách nhiệm cá nhân của cá nhân sai phạm để truy thu khoản bồi thường và thực hiện kỷ luật.
Dường như, pháp luật chung về bồi thường thiệt hại của Việt Nam nêu tại điều 604 Bộ luật Dân sự và được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP cũng đủ để giải quyết liên quan đến bồi thường nhà nước cho các vụ như “lô cốt”... Tuy nhiên, sẽ là hoàn thiện hơn cho hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này nếu các nhà làm luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau.
Thứ nhất, quy định “phải có hành vi trái pháp luật” trong các yếu tố khởi kiện một vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nêu tại Nghị quyết 03 là không hợp lý. Quy định này bắt nguồn từ hệ thống Đức hay Anh, nơi yêu cầu hành vi vi phạm phải trái một quy định pháp luật nào đó và nó trái với quy định chung của điều 604 Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường cho bất kỳ hành vi nào xâm hại đến “tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân…” (theo hệ thống Pháp). Ai cũng biết rằng hành vi vi phạm một quy định pháp luật là khác và hạn hẹp hơn một hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của một người. Vì vậy, quy định tại Nghị quyết 03 nói trên cần được sửa đổi cho phù hợp với điều 604 Bộ luật Dân sự.
Thứ hai, nhà làm luật cần xem xét bổ sung vào dự thảo Luật Bồi thường nhà nước của Việt Nam quy định về bồi thường nhà nước đối với các công trình công cộng. Quy định tại điều 2.1 Luật về bồi thường nhà nước của Nhật Bản nói trên có thể được coi là một nguồn tham khảo.
Cuối cùng, trong các vụ án bồi thường nhà nước, vì nguyên đơn thường là những người không có điều kiện (khả năng) để chứng minh rằng chủ thể vi phạm có lỗi hay không nên nhà làm luật cần xem xét quy định chủ thể vi phạm phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi như được quy định tương tự tại điều 623 và 624 Bộ luật Dân sự Việt Nam.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Án tuyên không rõ, không khả thi cần kiến nghị thẳng. Bài báo phản ánh cuộc trao đổi nhanh giữa Phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam với Phó Chánh án TANDTC Trần Văn Tú như sau:
- Một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến án tồn đọng được ngành Tư pháp chỉ ra là do Tòa tuyên “nhầm”, tuyên không khả thi, theo ông đâu là nguyên nhân của thực trạng này?
Chúng tôi thừa nhận có chuyện án tuyên không rõ, tuyên thiếu khả thi. Nguyên nhân chủ yếu là các Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ, thẩm vấn tại phiên tòa phiến diện, có sự nhầm lẫn, đặc biệt trong cách tính toán của các vụ án dân sự, do vậy đã tuyên không chính xác.
- Có ý kiến đặt vấn đề liệu có tiêu cực trong việc này?
Tôi không dám khẳng định có hoặc không có tiêu cực.
- Theo quy định, khi Tòa tuyên không chính xác, Thi hành án có văn bản hỏi thì Tòa có trách nhiệm giải thích. Tuy nhiên, nhiều việc Tòa giải thích chậm hoặc không giải thích?
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC chỉ cho phép đính chính trong hai trường hợp, còn lại phải thông qua giám đốc thẩm. Tôi thấy việc giải thích cũng không ổn lắm. Án đã tuyên rồi mà đi giải thích lại, cũng không phù hợp.
Cần nói thêm là trong năm 2010, TANDTC đã chỉ đạo Chánh án các tỉnh phối hợp với Thi hành án xem không chính xác ở những trường hợp nào, có trường hợp thì phải đính chính, nhưng cũng có trường hợp phải báo cáo lên TANDTC để xem xét giám đốc thẩm.
- Nhưng nếu giám đốc thẩm mà bị cải, sửa, hủy sẽ ảnh hưởng đến thi đua và đánh giá Thẩm phán, có phải vì thế việc báo cáo sẽ “dè dặt” hơn?
Có thể khi phán ánh, Tòa án địa phương cũng sẽ có cái vướng. Tôi đề nghị những trường hợp vướng mắc, Tổng cục Thi hành án dân sự kiến nghị thẳng lên TANDTC, chúng tôi sẽ rút hồ sơ lên xem xét.
- Thưa ông, cũng liên quan đến án tồn đọng, Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp) đưa ra con số có đến hơn 81 ngàn việc chuyển giao bản án, quyết định… chưa kịp thời, dẫn đến chưa thể thi hành án, ông nhận xét thế nào? Có cách gì khắc phục?
Thời hạn chuyển giao Luật đã quy định rõ rồi, nhưng có thể thực tế thực hiện lại ngoài quy định đó.
Theo tôi, Tổng cục Thi hành án dân sự và Tòa Dân sự TANDTC có thể đề xuất xây dựng quy chế hợp tác. Trên cơ sở đó, Chánh án và Cục trưởng Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố tiếp tục ngồi với nhau để ký Quy ước về chuyển giao bản án. Phải có cái đó thì về sau mới có căn cứ để kiểm điểm trách nhiệm.
Năm tới, TANDTC sẽ tăng cường phối hợp với Bộ Tư pháp, vì trong năm mới này, với việc Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, mảng theo dõi thi hành án hành chính được giao cho Bộ Tư pháp, chắc chắn công việc sẽ nhiều hơn.
3. Báo VOV News đưa tin: Sáng 27/12, tại TP HCM, Ủy Ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức Hội thảo về “Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự”.
Tại hội thảo, các đãi biểu tập trung thảo luận một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung như: Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, vấn đề định gía tài sản, thời hiệu khởi kiện và cơ chế kháng nghị…
Ông Từ Văn Nhũ, Phó Chánh án TAND Tối cao nói: Trong quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự, việc đáp ứng yêu cầu của đương sự là vấn đề đặt ra cho tòa án các cấp phải giải quyết. Nhưng do những qui định của Bộ luật có phần chưa được cụ thể, có những điểm hiện nay không còn phù hợp nữa. Đặc biệt, hiện nay vấn đề khiếu nại các bản án đã có hiệu lực pháp luật được giải quyết theo qui trình nào: theo Luật Khiếu nại tố cáo hay theo Bộ luật Tố tụng dân sự cũng là một vấn đề. Nếu giải quyết theo Bộ luật Tố tụng dân sự hiện nay không có qui định nào dành thời hạn cho người ta khiếu nại mà mới chỉ qui định thời hạn cho người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Mức phạt nặng nhưng khó thực hiện. Bài báo phản ánh: Trong một bài viết về việc xây dựng Luật Xử lý vi phạm hành chính, báo Pháp Luật TP.HCM cho biết kết quả rà soát của ban soạn thảo cho thấy đang có hơn 100 nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có nhiều quy định trùng lắp, chồng lấn nhau về phạm vi điều chỉnh; mâu thuẫn, chồng chéo nhau giữa các hành vi, mức xử phạt…
Xu hướng của nhà nước hiện nay là xử phạt rất nặng các hành vi vi phạm hành chính. Thế nhưng các mức phạt nặng này lại không khả thi. Với các con số 20-30 triệu đồng trong Nghị định 34/2010, làm sao ấn chúng vào những người buôn bán nhỏ lấn chiếm lòng, lề đường? Phần lớn những người này không có tài sản, không có tài khoản nên chính quyền lấy gì để cưỡng chế? Còn tịch thu phương tiện, dụng cụ thì không có nơi cất giữ, thủ tục thanh lý phức tạp, mất nhiều thời gian, công sức. Tương tự, mức phạt 300.000-600.000 đồng hành vi kinh doanh thực phẩm ở môi trường không bảo đảm vệ sinh theo Nghị định 45/2005 quá cao đối với người bán hàng ở vỉa hè.
Một quy định khác cũng vừa gần mà cũng vừa xa với dân. Gần vì việc bán lẻ thuốc lá rất phổ biến; xa vì không thể áp dụng. Theo khoản 10 Điều 11b Nghị định 76/2010, hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng dưới 1.500 bao và người vi phạm đã bị xử phạt hành chính nhưng chưa hết thời hạn quy định mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm… thì có thể bị xử lý hình sự. Trường hợp không truy cứu trách nhiệm hình sự mà chuyển sang xử phạt hành chính thì mức phạt tiền lên đến 100 triệu đồng.
Vậy phải chăng đối với một người bán lẻ thuốc lá từng bị xử phạt (50.000-200.000 đồng) do buôn bán 10 bao thuốc lá và chưa được một năm sau lại tiếp tục buôn bán với số lượng xấp xỉ (dưới 1.500 bao) thì phải bị xử phạt 100 triệu đồng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Nếu đúng vậy thì e rằng chẳng ai chọn cách xử lý này vì không khả thi và quá “hung tợn”.
Phạt nặng là cần thiết, nhất là ở các đô thị lớn nhưng mức phạt phải được tính toán kỹ lưỡng để phù hợp với hành vi vi phạm, phát huy hiệu quả răn đe, giáo dục.
5. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Sai sót chủ yếu về thể thức. Bài báo phản ánh: Theo quy định của Luật ban hành VBQPPL, dự thảo quyết định, chỉ thị của UBND cấp huyện phải được cơ quan tư pháp cùng cấp thẩm định trước khi trình UBND. Sau khi ban hành, chậm nhất là ba ngày kể từ ngày ký ban hành thì VB của HĐND, UBND cấp huyện phải được gửi đến Sở Tư pháp để kiểm tra.
Tuy nhiên, thực tiễn kiểm tra, đa số các quận, huyện đều “bỏ quên” khâu này. Điển hình như huyện Chương Mỹ, toàn bộ văn bản do UBND huyện ban hành không có VB thẩm định của cơ quan tư pháp cũng không được gửi đến cơ quan có thẩm quyền kiểm tra cấp trên.
Do chưa coi trọng công tác thẩm định VB nên nhiều vướng mắc trong công tác ban hành VBQPPL của các quận, huyện đã không được phát hiện, hướng dẫn kịp thời, chẳng hạn như: Sự lúng túng trong việc phân biệt VBQPPL với các VB áp dụng pháp luật, VB hành chính; rồi lúng túng trong việc xác định thẩm quyền ban hành VB.
Tại quận Hai Bà Trưng, không ít VB nội dung có chứa QPPL, quy định quy tắc xử sự chung, áp dụng nhiều lần với nhiều đối tượng nhưng lại không được ban hành dưới hình thức VBQPPL. Trong khi, một số VB nội dung không có tính quy phạm lại được ban hành dưới hình thức VBQPPL.
Một sai sót khác về thể thức tại các đơn vị được kiểm tra là việc viện dẫn VBQPPL làm cơ sở pháp lý ban hành VB không đúng.
Đáng chú ý, nhiều VB được quận Hoàn Kiếm, quận Hai Bà Trưng ban hành để phục vụ thực tiễn công tác quản lý nhà nước tại địa phương; nhưng nhiều nội dung trong các VB này lại không được quy định cụ thể, rõ ràng và chưa phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Sau khi kiểm tra hệ thống VBQPPL tại các quận, huyện, Đoàn kiểm tra đã có kết luận cụ thể đối với từng quận, huyện và yêu cầu các đơn vị tự kiểm tra, xử lý ngay các sai sót. Qua thực tiễn kiểm tra VB, Hà Nội cũng đã đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành Thông tư hướng dẫn Nghị định 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra, xử lý VBQPPL. Đồng thời, đề nghị Bộ tăng cường tổ chức các khóa học đào tạo bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ kiểm tra, rà soát VB cho đội ngũ cán bộ Tư pháp cơ sở.
6. Báo Phụ nữ Online có bài Vì sao án chưa được thi hành? Bài báo phản ánh: Đã hơn một tháng kể từ khi bài viết Cạn tàu ráo máng được đăng trên Báo Phụ Nữ (ngày 3/11/2010), phản ánh việc ngôi nhà mặt tiền Quốc lộ 22, xã Trung Chánh, H.Hóc Môn do bà T.T.N.H. làm chủ, bị con ruột bà chiếm giữ và ghi những lời thóa mạ, tình hình vẫn chưa có biến chuyển gì. Nhiều người dân vẫn liên tục gọi điện đến Báo, bức xúc: “Vì sao chính quyền cùng các cơ quan thực thi pháp luật lại bó tay trước một hành vi sai trái, phi đạo đức như thế?”.
Được biết, ngày 8/11/2010, Văn phòng UBND Q.12 đã ban hành Thông báo số 198/TB-VP về việc giải quyết đơn tố cáo khiếu nại của con gái bà N.H., người lấn chiếm đất của mẹ và không thi hành bản án theo quyết định của tòa. Theo đó, yêu cầu công an huyện và công an xã Trung Chánh tiếp tục giám sát hành vi của bà N.T.H., con gái bà N.H., nếu phát hiện những hành vi vi phạm an ninh, trật tự, phải kịp thời lập biên bản xử lý hành chính và củng cố hồ sơ để xử lý theo quy định. Trong cuộc họp giải quyết đơn tố cáo này, ông Lê Tấn Nê - chấp hành viên Cục Thi hành án (THA) dân sự TP.HCM có ý kiến: “Trong thời gian Cục THA TP thực hiện việc thi hành án vụ tranh chấp giữa bà T.T.N.H. và bà N.T.H. theo nội dung bản án do Tòa án Nhân dân tối cao tại TP.HCM đã tuyên, Cục THA đề nghị H.Hóc Môn tiếp tục hỗ trợ THA TP bảo vệ kết quả công tác THA và kiểm soát các hành vi của bà N.T.H. nhằm bảo vệ tài sản giao cho bà T.T.N.H.”.
Tuy nhiên, bà N.T.H., con gái bà N.H. vẫn ngang nhiên thách thức pháp luật. Lúc 10g ngày 11/12/2010, bà N.T.H. cho xe tải biển số 54T-8143 vào đậu trong sân ngôi nhà đang tranh chấp. 21g ngày 16/12, bà N.T.H. cho xe container biển số 18N-3858 kéo rơ-mooc chở 10 chiếc xe tải nhỏ vào sân ngôi nhà này lần nữa. Sáng 17/12, bà N.T.H. tiếp tục căng bảng hiệu: Mua bán và bảo hành xe… ngay trước ngôi nhà mà lẽ ra, theo quyết định của tòa án bà phải giao lại cho mẹ mình.
Thiết nghĩ, nếu các cơ quan chức năng không kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế theo đúng pháp luật, thì việc thi hành bản án, giao lại đất cho người mẹ đã 71 tuổi này không biết bao giờ mới thực hiện được!
7. Báo Văn hóa có bài Cho thuê lại lao động: Luật chưa cho phép vẫn hoạt động. Bài báo phản ánh: Cho đến nay, dù chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào cho phép các tổ chức, doanh nghiệp (DN) hoạt động cho thuê lại lao động (CTLLĐ). Nhưng trên thực tế, hàng loạt DN có tên tuổi trong lĩnh vực nhân sự, thậm chí một số công ty Nhà nước đã và đang tiếp tục cung cấp dịch vụ CTLLĐ với nhiều tiềm ẩn lợi bất cập hại.
Khảo sát của Vụ Pháp chế (Bộ LĐ,TB&XH) về tình hình hoạt động CTLLĐ cho thấy, các DN hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm ở phía Nam. Trong đó, TP.HCM có 59 DN, Bình Dương 51 DN, Đà Nẵng 25 DN và Đồng Nai khoảng 20 DN đang cung cấp dịch vụ CTLLĐ. Tại Hà Nội, hoạt động này cũng đã xuất hiện trong khoảng 3 năm trở lại đây. Ngành nghề chủ yếu của các đối tượng “bị” CTLLĐ là kế toán, báo cáo thuế, dịch vụ bảo vệ, công nhân bốc xếp,... Gần đây, hình thức CTLLĐ cũng đã xuất hiện ở những lĩnh vực ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn cao như công nhân kỹ thuật điện,...
Trong điều kiện Bộ luật Lao động hiện hành còn đang “bỏ ngỏ” vấn đề CTLLĐ, ngành chức năng phải kịp thời nắm bắt tình hình để kiểm soát thị trường LĐ. Bên cạnh đó, cần sớm ban hành khuôn khổ pháp lý để hoạt động này đi theo một hành lang an toàn.