Điểm tin báo chí sáng ngày 11 tháng 10 năm 2010

11/10/2010
Trong buổi sáng ngày 11/10/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: 86 người chết và mất tích do mưa lũ - Đó là con số thống kê thiệt hại cuối cùng của BCĐ PCLB về tình hình mưa lũ diễn ra trên địa bàn các tỉnh miền Trung những ngày qua. Các tỉnh miền Trung đã không còn mưa trong vài ngày nay, song, cho đến chiều qua 10-10, 5 xã của 2 huyện Hương Khê và Vũ Quang của tỉnh Hà Tĩnh và 9 xã trên địa bàn 5 huyện của tỉnh Quảng Bình vẫn còn ngập. Tổng thiệt hại lên tới 2.500 tỷ đồng. Quảng Bình là tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất với 59 người chết và mất tích, thiệt hại gần 1.400 tỷ đồng. Hiện tỉnh vẫn còn 6 tàu của ngư dân mất tích, chưa liên lạc được. Tiếp đến Hà Tĩnh thiệt hại khoảng 850 tỷ đồng.
Trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả mưa lũ tại Quảng Bình, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu các cấp, ngành, các địa phương cần chung tay, sát cánh hỗ trợ đồng bào. Đảng và Nhà nước sẽ hết lòng ủng hộ đồng bào bị thiên tai. Thủ tướng nhận định, trận mưa lũ lịch sử trong vòng 60 năm qua xảy ra đã khiến các tỉnh như Quảng Bình, Hà Tĩnh... phải gánh chịu những hậu quả vô cùng nặng nề.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Tài vừa đưa ra giải pháp về phát triển nhà ở xã hội. Theo đó, TP sẽ nghiên cứu mô hình tổng công ty phát triển nhà ở xã hội.
Trên cơ sở kiện toàn các công ty công ích ở 24 quận, huyện là các công ty trực thuộc tổng công ty, hoạt động trên địa bàn từng quận, huyện. Tổng công ty là doanh nghiệp phát triển phi lợi nhuận, chủ yếu tái đầu tư phát triển nhà ở xã hội để quản lý đầu tư và phát triển chuyên nghiệp quỹ đất công và nhà ở công sản của TP. TP cũng sẽ thành lập hoặc kiện toàn quỹ phát triển nhà ở thành phố. Quỹ này hoạt động chuyên biệt ở lĩnh vực đầu tư tài chính (không đầu tư xây dựng trực tiếp quỹ nhà ở xã hội) với chức năng bảo lãnh cho vay đối với các dự án nhà ở xã hội. Nguồn vốn hoạt động của quỹ từ việc bán, cho thuê, cho thuê mua quỹ nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.
3. Báo Lao động phản ánh: Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân vừa có thư gửi Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư yêu cầu các Bộ này kiểm tra, xử lý nghiêm vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về doanh nghiệp cổ phần tại Công ty cổ phần Dược liệu TW 2 thuộc Tổng Công ty Dược Việt Nam, Bộ Y tế.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân giao Bộ Y tế chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch đầu tư, Tổng Công ty Dược Việt Nam xem xét thận trọng, kịp thời và có văn bản đề nghị các cơ quan chức năng vào cuộc, giải quyết vụ việc khẩn trương, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong cuối tháng 10/2010.
Sự việc bắt đầu từ lá đơn kêu cứu khẩn cấp của ông Phan Thành Lây, nguyên Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Dược liệu TW2, gửi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (thông qua Cổng Thông tin điện tử Chính phủ). Nội dung thư kêu cứu phản ánh: các ông Nguyễn Công Chiến, Phạm Anh Kiệt, Phạm Hồng Tuấn, Nguyễn Văn Phận, nguyên là thành viên HĐQT của Công ty, sau khi đưa ra yêu cầu vô lý đòi bãi nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc, không được các thành viên khác chấp nhận, đã đến Trụ sở Công ty ngang nhiên tổ chức phá két sắt, đoạt lấy con dấu, bất chấp sự phản đối của cán bộ, nhân viên trong Công ty và sự có mặt của các đồng chí cảnh sát được cấp báo đến.
Vụ việc này và nhiều chuyện phức tạp liên quan đến số người trên ở Công ty cổ phần Dược liệu TW 2, nơi Nhà nước nắm 30% cổ phần chi phối, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và niềm tin của các đối tác nước ngoài đang đầu tư hợp tác với Công ty… đã được nhiều cơ quan báo chí lên tiếng phản ánh như là những biểu hiện nhức nhối về hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Theo chinhphu.vn, Bộ Tư pháp đang trình Chính phủ xem xét dự thảo Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Trong đó, quy định cụ thể cơ quan có trách nhiệm hợp nhất, cũng như quy trình, kỹ thuật hợp nhất VBQPPL do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành. Việc hợp nhất văn bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tra cứu, áp dụng và thi hành pháp luật.
Về chủ thể có trách nhiệm hợp nhất VBQPPL, dự thảo đề xuất Văn phòng Quốc hội chịu trách nhiệm hợp nhất VBQPPL của Quốc hội; cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung chịu trách nhiệm hợp nhất VBQPPL của Chủ tịch nước, Chính phủ; Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, chánh án TAND Tối cao, viện trưởng VKSND Tối cao, tổng kiểm toán nhà nước, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm hợp nhất VBQPPL do mình ban hành. Các VBQPPL phải được hợp nhất trong vòng 15 ngày kể từ ngày công bố văn bản sửa đổi, bổ sung.
2. Trang web báo Pháp luật Việt Nam có bài Án tồn vì ủy thác tư pháp. Bài báo phản ánh: Từ lâu, kết quả ủy thác tư pháp đã là một vấn đề “nhức nhối”, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Song, qui định pháp luật hiện hành về vấn đề này còn chung chung, nên cả cơ quan nhà nước và người dân chỉ biết “chờ đợi” cơ quan nhận ủy thác có kết quả trả lời.
Ngày 26/6/2009, TAND TP.HCM mở phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sở hữu nhà” giữa nguyên đơn là ông Chuang Yu Sheng và bị đơn là bà Nguyễn Thị Thúy Hương và ông Huang Wen Yuan. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án là ông Chang Mang Tang và ông Lin FuLin (người Đài Loan, Trung Quốc). Do những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có mặt tại phiên tòa ngày 26/6/2009 nên TAND TP.HCM đã có Công văn đề nghị Bộ Tư pháp thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp TA có thẩm quyền của Đài Loan để niêm yết bản án số 1542/2009/DSST. Kể từ đó, công văn “đi lại” liên tục giữa TAND TP.HCM và Bộ Tư pháp, giữa Bộ Tư pháp với TA có thẩm quyền của Đài Loan nhưng không có kết quả.
Do đó, ngày 7/7/2009, bà Hương có đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 1542/2009/DSST, nhưng TAND TP không thể chuyển bán án lên TA cấp phúc thẩm để giải quyết vì một lý do gần như “bất khả thi”: “Không nhận được kết quả ủy thác tư pháp”. Mặc dù đã có Luật Tương trợ Tư pháp nhưng hàng trăm nghìn vụ, việc dân sự như của bà Hương nêu trên vẫn đang phải xếp hàng, không thể có phán quyết cuối cùng vì còn chờ “kết quả ủy thác tư pháp”. Hậu quả trước mắt là làm giảm uy tín của cơ quan TA đối với việc giải quyết các tranh chấp dân sự vì người dân cảm thấy “TA đang gây khó dễ, không quan tâm đến quyền lợi của mình”. Đồng thời còn khiến quyền lợi của người dân bị “treo” vô thời hạn, các tranh chấp cứ nghiêm nhiên tồn tại và các lợi ích liên quan (nếu có) của các bên liên quan sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí  lụi tàn theo từng ngày chờ đợi một câu trả lời từ bên kia biên giới.
Nhưng đúng là trong các trường hợp này, các cơ quan chức năng của Việt Nam, nhất là TA và Bộ Tư pháp, đã bị rơi vào tình trạng “tình ngay lý gian” vì theo qui trình hiện hành, toàn bộ qui trình ủy thác vẫn theo kiểu “chuyển hồ sơ” từ các cơ quan chức năng Việt Nam sang nước ngoài. Giai đoạn cuối cùng lại là “nhờ” cơ quan tư pháp nước bạn thu thập, xác minh chứng cứ. Nếu thành công, hồ sơ đi ngược hành trình để quay về TA Việt Nam thì không có gì để than phiền. Nên khi hồ sơ bị “ách” ở các cơ quan nước bạn vì những lý do “đẩu đâu” thì các vụ, việc dân sự đó sẽ được liệt vào danh sách “án tồn” gần như không có giới hạn.
Thực tế, mỗi ngày, lãnh đạo các cơ quan chức năng Việt Nam phải “chia nhau” ký hàng chục hồ sơ ủy thác tư pháp. Nhưng như Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tư pháp) Nguyễn Khánh Ngọc thừa nhận: “Bộ Tư pháp chỉ có chức năng chuyển hồ sơ ủy thác tư pháp. Nếu giữa hai nước có Hiệp định Tương trợ tư pháp thì còn có căn cứ để “nhắc nhở” các cơ quan chức năng của bạn thực hiện theo yêu cầu ủy thác. Còn nếu không thì đành chỉ biết chờ bạn có thông tin”. Nên như trường hợp vụ “tranh chấp quyền sở hữu nhà” giữa bà Hương và ông Yuan với ông Sheng này, dù Bộ Tư pháp đã thực hiện đúng chức năng “chuyển hồ sơ” sang Bộ Ngoại giao để làm thủ tục ủy thác tư pháp, nhưng vì phía Đài Loan và Việt Nam chưa có thỏa thuận về vấn đề tương trợ tư pháp nên ta chỉ biết “ngồi chờ”, mà không thể có một động thái nào để giúp tiến trình giải quyết vụ án dân sự tiến triển tích cực hơn. Cách giải quyết “thụ động” này khiến kết quả ủy thác tư pháp đang là một trong những “rào cản” lớn nhất đối với việc giải quyết các vụ, việc án dân sự có yếu tố nước ngoài.
Để gỡ vướng, TANDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao… đang có chủ trương xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện việc ủy thác tư pháp giải quyết vụ, việc dân sự. Trong đó, sẽ lưu ý đến trường hợp ủy thác đến lần thứ 2 mà không có kết quả, cũng như qui định cụ thể các bước, các biện pháp xử lý đối với từng giai đoạn trong quá trình ủy thác tư pháp, từ thụ lý, thu thập tài liệu, chứng cứ, hòa giải đến việc đưa án dân sự đó ra trước một Hội đồng xét xử… và những vấn đề khác liên quan như thủ tục tống đại, kháng cáo, kháng nghị mà không có kết quả ủy thác tư pháp…
3. Báo Hà Nội mới có bài Chỉnh sửa hệ thống văn bản pháp luật: “Tuýt còi” nhưng thiếu cơ chế hậu kiểm. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp đang chú trọng việc rà soát lại, kiến nghị phương án chỉnh sửa hệ thống văn bản pháp luật, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Theo TS Lê Hồng Sơn - Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản pháp luật, không ít địa phương và các bộ, ngành TƯ có biểu hiện bảo thủ trong công tác xây dựng văn bản pháp luật. Thực trạng áp đặt "giấy phép con"; tùy tiện đặt ra thủ tục vô lý đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn tồn tại...
TS Lê Hồng Sơn khẳng định, qua khảo sát cho thấy, vẫn còn 7 bộ và nhiều tỉnh, thành có ban hành văn bản trái luật là: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Công thương; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Xây dựng; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Tài chính; Bộ Y tế; thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Nghệ An, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Giang, Kon Tum, Quảng Nam, Đắc Nông, Bình Định, Ninh Thuận, Quảng Bình, Đồng Nai… Trong đó, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế và thành phố Hồ Chí Minh nhận được nhiều văn bản nhắc nhở nhất nhưng chưa có phản hồi về phương án khắc phục.
Trước đó, khi nhận phản ánh của người dân về nội dung trái luật trong Quyết định số 54/2007/QĐ-UBND TP Hồ Chí Minh về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận (GCN) quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, GCN quyền sở hữu nhà ở, GCN quyền sử dụng đất, Bộ Tư pháp đã cấp tốc kiểm tra thông tin này. Kết quả cho thấy, danh mục các loại giấy tờ về tạo lập nhà ở, đất ở làm cơ sở pháp lý để cấp giấy chứng nhận, UBND TP Hồ Chí Minh có nhiều quy định bất hợp lý. Đó là yêu cầu phải có biên bản nghiệm thu công trình xây dựng hoàn thành để đưa vào sử dụng, biên bản nghiệm thu hoàn thành đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và bàn giao cho UBND quận, huyện hoặc Sở Giao thông Công chính quản lý để đưa vào sử dụng theo đúng quy định của pháp luật về xây dựng.
Đối chiếu với các loại giấy tờ làm cơ sở để cấp GCN theo Luật Đất đai và các Nghị định 90/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở và Nghị định 88/2009/NĐ-CP về cấp GCN quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất, đều không quy định các loại giấy tờ nói trên. Đến nay, hơn 3 năm sau ngày ban hành và gần 10 tháng từ khi Bộ Tư pháp phát hiện, chỉ lỗi này, Quyết định 54 vẫn đang là cơ sở pháp lý để TP Hồ Chí Minh xem xét cấp GCN quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, GCN quyền sở hữu nhà ở, GCN quyền sử dụng đất cho người dân, tổ chức trên địa bàn này.
Dân tốn nhiều thời gian, công sức lo những giấy tờ mà thành phố tự ý đề ra, cán bộ thi hành thì vấp phải sự phản ứng từ không ít người đến làm thủ tục.
Một việc gây nhiều bức xúc cho dân nữa là quy định tại Thông tư liên tịch của Bộ Y tế - Tài chính (số 09). Trong đó quy định, để được nhận bảo hiểm y tế, người bị tai nạn giao thông cần phải có giấy xác nhận không vi phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền là đơn vị nào thì Thông tư không làm rõ, gây phiền hà, bế tắc cho người hưởng bảo hiểm y tế.
Sau khi bị Bộ Tư pháp "tuýt còi" nội dung trên, Bộ Y tế phân trần rằng đơn vị có thẩm quyền xác nhận là cảnh sát giao thông. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít người bị tai nạn có đến xin giấy này nhưng cảnh sát giao thông không đủ dữ liệu để cấp. Do nhiều trường hợp tai nạn xảy ra nhưng lực lượng này không đến kịp, hiện trường bị xáo trộn hoặc người gây tai nạn trốn, người bị hại không có ai làm chứng nên không thể kết luận nguyên nhân gây ra tai nạn. Mặt khác, hiện pháp luật chưa có bất kỳ quy định, mẫu cụ thể nào về việc cấp giấy xác nhận không vi phạm luật giao thông cho người bị tai nạn. Hai chi tiết trên cho thấy, Thông tư 09 có nhiều điều khoản "siêu thực", là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không ít người bị tai nạn giao thông không được hỗ trợ hoặc thanh toán bảo hiểm y tế, ngay cả khi họ không có lỗi. (Dư luận gọi tên hiện tượng này bằng 6 chữ mỉa mai - "thu tối đa, chi tối thiểu").
Theo tìm hiểu của phóng viên, đến nay Bộ Y tế đang âm thầm khắc phục tình trạng trên bằng cách soạn thảo thông tư mới. Nhưng biện pháp quan trọng nhất là phải đình chỉ phần "sản phẩm bị lỗi" lại không được thực hiện. Ban Dân nguyện của Quốc hội khẳng định, đây cũng là một trong những vấn đề cử tri kêu nhiều nhưng chính vì cách giải quyết của Bộ Y tế chưa thấu đáo nên đang gây bức xúc kéo dài. Đáng tiếc là không riêng Bộ Y tế mà tất cả các chủ thể Bộ Tư pháp vừa điểm tên trên đều không chịu thực thi Khoản 1 Điều 23 Nghị định 40/2010/NĐ-CP (quy định thời hạn 30 ngày để các cơ quan, cá nhân ban hành văn bản có dấu hiệu trái pháp luật tự kiểm tra, xử lý và thông báo kết quả xử lý cho cơ quan kiểm tra văn bản). Chia sẻ với Hànộimới, ông Lê Hồng Sơn nói, an ủi lớn nhất của ngành này là những lá thư cảm ơn của công dân. Công tác "tuýt còi" văn bản trái luật chỉ là tiếng kẻng ban đầu cho chúng ta biết được chất lượng phục vụ của cơ quan công quyền đối với các doanh nghiệp và người dân đến đâu. Vấn đề đặt ra sau đó là cần phải có chế tài xử lý các đơn vị cố tình "vượt đèn đỏ". Như vậy, công tác hậu kiểm mới được đặt đúng vị trí, vai trò của nó trong cả quy trình ban hành và thực thi văn bản quy phạm pháp luật.
4. Báo Sài Gòn tiếp thị phản ánh: Sáng nay 8. 10, thẩm phán Nguyễn Thị Kim Vinh, tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM đã cho hoãn phiên tòa luật sư Ngô Minh Sơn kiện bộ Tư pháp. Nguyên nhân do ông Nguyễn Thái Phúc, trưởng cơ quan đại diện bộ Tư pháp, đại diện bị đơn vắng mặt. Phiên tòa sẽ được xử lại vào ngày 26. 10. Theo hồ sơ, năm 2001, ông Sơn bị TAND tỉnh Bạc Liêu xử phạt một năm tù nhưng cho hưởng án treo vì tội nhận hối lộ.
Tháng 11. 2008, ông Sơn được bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Tuy nhiên, đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu từ chối đơn xin vào đoàn của ông Sơn và gửi văn bản cho bộ Tư pháp. Cho rằng, bộ ra văn bản thu hồi chứng chỉ hành nghề trái pháp luật nên ông Sơn kiện cơ quan này ra tòa đòi bồi thường hơn 120 triệu đồng. Trong lần xét xử sơ thẩm, tòa Bạc Liêu bác yêu cầu của ông Sơn.
5. Báo Đại đoàn kết có bài Phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn còn hình thức. Bài báo phản ánh: Cho đến thời điểm này, chưa có một đánh giá toàn diện nào về công tác PBGDPL. Mặc dù rằng, theo nhiều báo cáo của các ngành, tổ chức chính trị xã hội... hằng năm đều có phần việc PBGDPL, nhưng tác dụng đến đâu thì chưa được đánh giá cụ thể. Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên, mục đích cuối cùng của việc phổ biến tuyên truyền pháp luật chính là xây dựng ý thức pháp luật. Nếu nhìn nhận ở góc độ này, có thể thấy công tác này chưa theo kịp yêu cầu của xã hội, nặng tính hình thức. Có nhiều lý do được đưa ra.
Trước hết, việc xác định đối tượng tuyên truyền còn chưa trúng, chưa sát. Thứ hai cách thức phổ biến chưa thu hút được đối tượng được hưởng thụ, chưa làm rõ quyền và lợi ích khi tham gia quan hệ do pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn, đối với học sinh, sinh viên thì cần như thế nào, cần PB,GD luật gì? Đối với đồng bào dân tộc thiểu số thì phương pháp tiếp cận ra sao? Trong cuộc sống họ cần những luật gì? Thường thì các hội nghị tổ chức PBPL mới chỉ là giới thiệu văn bản...
Có thể thấy, công tác PBGDPL mới chỉ có sự chủ động ở những người đi phổ biến mà chưa tính đến tính chủ động của người được phổ biến. Đó là chưa tính đến khía cạnh giáo dục, ở những trường không có chuyên ngành Luật, ở từng cấp đào tạo việc dạy và học cũng còn mang tính hình thức. Lý giải vấn đề này, Vụ trưởng Vụ Phổ biến Giáo dục pháp luật Bộ Tư pháp Nguyễn Duy Lãm cho rằng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PBGDPL còn tản mạn, chưa đồng bộ, chưa có văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao như luật hay nghị quyết của Quốc hội nên việc triển khai PBGDPL gặp nhiều khó khăn.
Việc luật, pháp lệnh chậm đi vào cuộc sống không phải là câu chuyện mới. Từ thực tế đó, dự thảo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật xây dựng khung pháp lý cho hoạt động này. Hàng năm có rất nhiều luật, pháp lệnh... được ban hành nhưng chưa có luật quy định việc đưa pháp luật đi vào cuộc sống, để có thể tiến hành công tác này một cách bài bản, thường xuyên, thiết thực và có hiệu quả. Ông Liên cho rằng, việc phổ biến giáo dục pháp luật chính là phổ biến chủ trương đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và làm rõ quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức... tham gia quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh. Vậy thì Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong thực hiện, tổ chức thực hiện PBGDPL; khuyến khích, tạo điều kiện để UBMTTQ các cấp và các tổ chức thành viên, các tổ chức và cá nhân khác tham gia vào công tác này.
Vậy, cốt lõi của vấn đề này chính là phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan như thế nào. Cơ chế phối hợp này phải được luật hóa cụ thể. Hiện nay, cơ chế này mới chỉ dừng lại ở việc quy định Bộ Tư pháp là đầu mối như dự thảo là chưa thỏa đáng.  Bên cạnh việc xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội thì cần huy động sức mạnh của toàn xã hội trong công tác này. Một vấn đề có tính chất sống còn, được xác định trên 3 yếu tố: Tổ chức; Con người và Tài chính.
6. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Nghị định mới xử phạt trong lĩnh vực công nghiệp - Cha chung có ai khóc?. Bài báo phản ánh: Nghị định (NĐ) 97/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghiệp với một số quy định mới hơn, nhưng liệu  có tạo được những bước tiến trong việc ngăn chặn nạn hàng nhái, hàng giả đang tung hoành như hiện nay? Trong khi đó, những kẻ làm hàng gian, hàng giả thì ngày càng tinh vi…
Từ đầu năm đến nay, Chi cục Quản lý thị trường TPHCM phát hiện gần 90 vụ vi phạm sở hữu trí tuệ, xử phạt hành chính 522 triệu đồng. Đây là con số xử phạt quá nhỏ so với thực tế. Nghị định 97 sẽ như thế nào khi quy định thêm những tổ chức, cá nhân buôn bán hàng nhái, hàng giả mạo nhãn hiệu sẽ bị tịch thu phần lợi nhuận bất hợp pháp, thay vì chỉ phạt tiền như trước… Vấn đề hiện nhiều người quan tâm là thủ đoạn của những kẻ làm hàng nhái, hàng kém chất lượng ngày càng tinh vi, ma mãnh. Không phải người tiêu dùng nào cũng có thể nhận biết được. Ngay một số cán bộ quản lý thị trường cũng thừa nhận đôi khi cũng không thể phân biệt được những mặt hàng nhái. Nhà quản lý còn lúng túng, thử hỏi người dân làm sao tránh được bẫy giăng?
Một cán bộ chuyên điều tra về hàng gian, hàng giả đại diện Chi cục quản lý thị trường TPHCM, cho biết: “Để đi đến kết luận một sản phẩm là hàng giả, hàng nhái không đơn giản. Người cán bộ quản lý không được dùng cảm quan, phỏng đoán để khẳng định sản phẩm. Bên cạnh đó, chúng tôi rất cần có sự phối hợp của chính cơ sở, doanh nghiệp sản xuất khẳng định sản phẩm bị vi phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng văn bản mới xử lý triệt để được những đối tượng làm hàng giả, hàng nhái”.
Thẩm quyền xử lý hàng gian, hàng giả, vi phạm trong lĩnh vực công nghiệp theo quy định cũ trước đây có đến 5 cơ quan cùng có trách nhiệm là Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an và UBND cấp tỉnh, huyện. Chính kiểu “cha chung không ai khóc này” nên khi thị trường có nhiều hàng gian, hàng giả chưa xử lý hết, không ai chịu trách nhiệm. Nay NĐ 97 lại bổ sung thêm thẩm quyền xử phạt hành chính cho 2 đơn vị: Cơ quan Thanh tra Thông tin và Truyền thông; Cục quản lý cạnh tranh. Theo Tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng, Chủ tịch Hội Bảo vệ Người tiêu dùng TPHCM, 7 đơn vị trên sẽ đứng trước nguy cơ xử phạt chồng chéo theo kiểu giẫm chân lên nhau. Ông cho rằng trong số các đơn vị này, không đơn vị nào là đầu mối chịu trách nhiệm quản lý chung vấn nạn hàng gian, hàng giả. Thực tế phân công công việc tuy rạch ròi nhưng tính chất pháp lý chưa cao.
Bên cạnh đó, ông Hùng cũng nhấn mạnh quyền lợi của người tiêu dùng (NTD) bị bỏ quên tại NĐ 97. “Nếu NTD mua phải thuốc dỏm, uống và bị phản ứng phụ gây nguy hại thì họ có thể khiếu nại nơi bán thuốc giả. Nhưng nếu uống thuốc ngấm vào người, sau 10-15 năm mới gây bệnh, thử hỏi nhà nước bảo vệ NTD như thế nào. Điều này không thấy nêu cụ thể ở NĐ 97” - ông Hùng lo ngại. Trên thực tế, rất ít tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đứng ra tố cáo và theo đuổi sự việc. Điều đó khiến cơ quan chức năng vào cuộc tìm hiểu sự việc càng gặp nhiều khó khăn hơn. Hiện tại chế tài xử phạt đã hết sức rõ ràng, nghiêm minh, nhưng làm thế nào để xác định được hành vi vi phạm (mức độ xử phạt phụ thuộc vào hành vi vi phạm) lại là chuyện khác. “Chúng tôi chỉ chủ yếu xử lý vi phạm hành chính. Hai biện pháp còn lại (xử lý dân sự và xử lý hình sự) rất ít sử dụng trong những trường hợp vi phạm về hàng gian, hàng giả như hiện nay. Hy vọng rằng trong tương lai, biện pháp xử lý dân sự, hình sự sẽ được phổ biến, theo hướng quốc tế hóa” - đại diện Chi cục Quản lý thị trường TPHCM nói.