Điểm tin báo chí sáng ngày 30 tháng 9 năm 2010

30/09/2010
Trong buổi sáng ngày 30/9/2010, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo điện tử VOV News đưa tin: Chiều ngày 29/9, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp trưởng đoàn các nước ASEAN nhân dịp tham dự Hội nghị những người đứng đầu Cơ quan An ninh các nước ASEAN lần thứ nhất diễn ra tại Hà Nội.

Hội nghị đã tập trung thảo luận và nhất trí đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực an ninh cũng như xây dựng chương trình hợp tác an ninh chung của ASEAN.

2. Báo Nhân dân có bài Tổng duyệt các đơn vị tham gia diễu binh, diễu hành Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Bài báo đưa tin: Sáng 29- 9, tại Sân bay Hoà Lạc – Sơn Tây (Hà Nội), Bộ Quốc phòng (BQP) đã tổ chức tổng duyệt các đơn vị đại diện Quân đội, Công an và Dân quân tự vệ (DQTV) tham gia các khối diễu binh, diễu hành tại Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Đại tướng Phùng Quang Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương (QST.Ư), Bộ Trưởng BQP đã đến dự và chỉ đạo. Cùng dự, có đại diện lãnh đạo các cơ quan BQP, Bộ Công an, Bộ Văn hoá - Thể thao v& Du lịch, các cơ quan Trung ương, các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, một số học viện, nhà trường và đơn vị.

3. Báo Dân Việt có bài 58 tỉnh, thành đã tổ chức đại hội thi đua yêu nước. Bài báo đưa tin: Chiều 29-9, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương đã họp phiên thứ 38 bàn một số nội dung chuẩn bị cho Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ VIII.

Tính đến nay, đã có 58/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 45/60 bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương tổ chức tốt đại hội thi đua yêu nước và điển hình tiên tiến. Các đại hội đã góp phần động viên, cổ vũ tinh thần thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, tạo khí thế thi đua sôi nổi ở các bộ, ngành, địa phương trước thềm Đại hội Đảng.

* Ngày 29-9, tại Hà Nội, hơn 300 nhà báo tiêu biểu trong cả nước đã tham dự Hội nghị điển hình tiên tiến và thi đua yêu nước của Hội Nhà báo Việt Nam, tổng kết phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2005-2010 và đề ra phương hướng tổ chức các phong trào thi đua yêu nước của Hội 5 năm tới.

4. Báo Sài Gòn tiếp thị đăng tiếp loạt bài góp ý Đại hội Đảng:

* Bài 2: Xác lập sở hữu quốc gia và của chính quyền địa phương. Bài báo phản ánh: Nói đến “sở hữu toàn dân” đương nhiên phải hiểu đó là quyền sở hữu chung của ít nhất tất cả mọi công dân đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Điều này, về mặt pháp lý, đòi hỏi phải tạo ra một cơ chế để tất cả mọi công dân (đồng sở hữu chủ) đều có quyền tham gia “định đọat” và “hưởng lợi” từ quyền sở hữu này.

Vậy, phải chăng Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến các tài sản thuộc sở hữu toàn dân? Và trong thời gian qua, khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thì đáng lẽ các cổ phần đó phải được phân chia đều cho tất cả mọi người dân chứ không chỉ “bán một phần cho cán bộ, công nhân viên”. Thực tế ở nước ta rõ ràng không phải và không thể như vậy.

Còn nói về “sở hữu nhà nước” thì sẽ có các câu hỏi đặt ra như: ai là nhà nước? (khái niệm “nhà nước” là một hệ thống các cơ quan và cấu trúc khác nhau chứ không phải là một cơ quan tập trung hay thống nhất); “nhà nước trung ương” hay “nhà nước địa phương”? và ai là đại diện cho chủ thể nhà nước? (phân biệt giữa cơ quan chính quyền, cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp). Một khi không làm rõ các vấn đề như vậy thì sẽ dẫn tới một hệ quả là sự hành động “nhân danh nhà nước” bao gồm cả sự chồng chéo lẫn lạm dụng về thẩm quyền.

Hiện nay, một khi pháp luật giải nghĩa rằng “nhà nước là người đại diện sở hữu tòan dân” thì cần đi tiếp lập luận này, mà theo đó chúng ta lại vấp phải vấn đề khác. Đó là, cũng theo pháp luật thì chỉ có Quốc hội là người đại diện của nhân dân (tức đồng thời sẽ là đại diện của sở hữu toàn dân) chứ không phải các cơ quan chính quyền (tức Chính phủ, UBND các địa phương). Và trong trường hợp như vậy thì cần phải xác định rõ là cơ quan chính quyền (hay nói gọn hơn là “chính quyền” sẽ chỉ đóng vai trò là người quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà thôi.

Vì vậy, về phương diện chủ thể sở hữu, nên xem xét bỏ khái niệm “sở hữu toàn dân” vì không có cơ chế thực hiện đồng thời không có ý nghĩa thực chất, mà thay vào đó xác định các chủ thể mới thay cho “toàn dân” và “nhà nước”. Cụ thể, đưa vào hai khái niệm mới là “sở hữu quốc gia” và “sở hữu của chính quyền” (bao gồm sở hữu của chính quyền trung ương và sở hữu của chính quyền địa phương như tỉnh, huyện và xã), coi đó là hai hình thức quan trọng nhất của sở hữu công cộng.

Khái niệm “quốc gia” không chỉ rộng mà còn sâu sắc hơn khái niệm “toàn dân”. “Quốc gia” bao gồm cả lịch sử của nhiều thế hệ con người Việt Nam sống trên lãnh thổ này (tức quá khứ), hiện tại (tòan dân) và tương lai (bao hàm sự phát triển). Quốc gia là phạm trù khái quát nhưng có thực, tồn tại lâu dài, không phụ thuộc vào người dân với tư cách các cá thể thuộc phạm trù có tí có tính biến động. Sở hữu quốc gia có ý nghĩa đặc biệt, là đối tượng bất di, bất dịch, không thể mua, bán, chuyển nhượng và được bảo hộ đặc biệt. Sở hữu của chính quyền, ngược lại, có tính linh họat. Chính quyền có thể mua, bán, chuyển đối, chuyển nhượng các đối tượng thuộc sở hữu của mình trên cơ sở bộ luật Dân sự.

Về phương diện đối tượng sở hữu, cần lưu ý rằng tài sản thuộc sở hữu “quốc gia”, “nhà nước” hay “toàn dân” không chỉ mang đến nguồn lợi mà còn là gánh nặng về tài chính và các nghĩa vụ khác đối với nhân dân, trước hết với tư cách là người đóng thuế. Vì vậy, vấn đề không chỉ là bảo vệ đối với các tài sản này mà còn là sự kiểm soát của nhân dân đối với sự gia tăng của nó (ví dụ sự đầu tư xây dựng công trình hay mua sắm của các cơ quan chính quyền cần phải bị kiểm soát trong các giới hạn theo luật định). Do đó, cần có cơ chế pháp lý để phân định, phân lọai, kiểm sóat sự gia tăng và biến động cũng như đặt ra các giới hạn về lọai cũng như quy mô giá trị đối với các lọai tài sả thuộc lọai hình sở hữu đặc biệt này.

* Bài 3: Dỡ “rào cản” sở hữu đất đai. Bài báo phản ánh: Có lẽ không có quốc gia nào có bộ luật về quản lý đất đai đồ sộ và phức tạp như ở Việt Nam. Vấn đề ở chỗ đó không phải là tất cả pháp luật về đất đai (để điều chỉnh nó như là một loại tài nguyên, đối tượng sở hữu và tài sản của Bộ luật Dân sự) mà chủ yếu là các văn bản liên quan đến quản lý nhà nước hay quản lý hành chính về đất đai, tức về thực chất xoay quanh bảo vệ các quyền và lợi ích của nhà nước với tư cách là “người đại diện chủ sở hữu (toàn dân) về đất đai”.

Xét về phương diện “sở hữu toàn dân về đất đai” có thể nêu một số vấn đề ở góc độ lý thuyết.

Thứ nhất, khi Hiến pháp ghi rằng “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” thì cần coi đó là tuyên ngôn chính trị về sở hữu hơn là một chế định pháp lý. Đất đai nói chung, tương tự như không khí và ánh sáng là các yếu tố thuộc về môi trường sống tự nhiên, nên không thể là “tài sản” thuộc phạm trù sở hữu của luật Dân sự được. Thay vào đó, các “mảnh đất” hay “thửa đất” cụ thể mới là đối tượng của sở hữu theo pháp luật. Luật về đất đai của các nước, do đó, chính là luật về địa chính.

Thứ hai, khi tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân trên cơ sở Luật Đất đai năm 1980, Nhà nước đã tước đoạt về mặt pháp lý (một cách đơn giản và dễ dàng) toàn bộ sở hữu tư nhân về đất đai ở Việt Nam. Tuy nhiên, bởi “đất đai” và “thửa đất” (hay “mảnh đất”) thuộc hai phạm trù khác nhau, do đó, trên thực tế, quá trình quốc hữu hóa các “mảnh đất” và “thửa đất” cụ thể đã không xảy ra sau đó.

Bản chất của quá trình tư nhân hóa đất đai: các cơ quan quản lý Nhà nước không còn đủ sức để sử dụng các công cụ và biện pháp hành chính nhằm kiểm soát sự vận động của các yếu tố và quy luật thị trường, dẫn đến đánh mất các thực quyền của người chủ sở hữu. Hậu quả của nó, mà cả Nhà nước và xã hội phải gánh chịu, là giá đất ngày càng tăng trong khi hiệu quả thật sự của các dự án đầu tư thì ngày càng thấp.

Nói cách khác, Nhà nước vẫn phải thừa nhận một thực tế khách quan là ai ở đâu (trên mảnh đất nào) thì vẫn ở đó. Có nghĩa rằng về mặt pháp lý, Nhà nước chỉ can thiệp vào hai khía cạnh của quyền sở hữu đất đai, đó quyền sử dụng và quyền định đoạt (chứ không tước đoạt hay giành lấy các quyền này). Theo đó, người dân (chủ sử dụng đất) muốn thay đổi mục đích sử dụng hay chuyển đổi, chuyển nhượng chủ quyền đối với các mảnh đất, thửa đất của mình thì phải xin phép và phải được sự đồng ý của Nhà nước.

Như vậy, động cơ của hành động “quốc hữu hóa” nói trên không phải nằm ở vấn đề quyền sở hữu mà ở chính sách của Nhà nước nhằm kế hoạch hóa một cách triệt để các quan hệ liên quan đến sở hữu đất đất đai.

Thứ ba, ngày nay, khi triển khai xây dựng nền kinh tế thị trường, chủ trương kế hoạch hóa của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội không còn nữa, dẫn đến chế định sở hữu toàn dân đối với đất đai cũng mất hết ý nghĩa. Không những thế, việc tiếp tục duy trì chế định sở hữu này còn trực tiếp và/hoặc gián tiếp cản trở sự phát triển của nền kinh tế và quá trình làm giàu của người dân thông qua việc hạn chế người dân biến các mảnh đất, thửa đất của mình thành tài sản và/hoặc vốn đầu tư. Mặt khác, chế định này còn đã và đang gây ra các “lạm dụng” một cách công khai hay bí mật của tất cả các chủ thể liên quan đến sở hữu, sử dụng và kinh doanh đất đai, bao gồm cả chính các cơ quan chính quyền, qua đó, thay vì chuyển đất đai thành tài sản và vốn đầu tư để phát triển kinh tế và đời sống thì biến nó thành phương tiện đầu cơ để trục lợi bằng tiền bạc ngắn hạn.

Thứ tư, thông qua phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, một quá trình tư nhân hóa về sở hữu đất đai đã và đang diễn ra trên thực tế một cách không thể tránh khỏi, dẫn đến vô hiệu hóa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

Như trên đã nói, “chủ sở hữu đất đai” luôn luôn tách rời khỏi người chiếm hữu và sử dụng đất. Nhà nước (là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai) cố gắng duy trì quyền sở hữu của mình bằng cách can thiệp vào quá trình sử dụng và định đoạt đất. Tuy nhiên, cách này đã và đang dần dần bị hạn chế và/hoặc khống chế bởi chính các yếu tố thị trường. Sự tác động của các quy luật thị trường (không chỉ bó hẹp trong nước mà còn bao gồm cả thị trường quốc tế và toàn cầu) gây sức ép làm phá vỡ các kế hoạch chủ động, và trên thực tế những năm vừa qua đã buộc các cơ quan Nhà nước thường xuyên phải thay đổi các quy hoạch phát triển kinh tế nói chung và quy hoạch sử dụng đất nói riêng đã ban hành.

Hơn nữa, các dự án đó lại được khởi xướng và quyết định bởi các lực lượng tư nhân, là đối tượng chắc chắn chủ yếu quan tâm đến tỷ suất thu hồi đầu tư và lợi nhuận, hơn là những mục tiêu quốc kế, dân sinh. Câu hỏi đặt ra là các cơ quan cấp phép đầu tư có thể từ chối cho phép các dự án đầu tư mang tính “gây sức ép” như vậy được không? Có thể, nhưng rất khó, bởi về mặt công khai, Nhà nước đang và luôn luôn đứng trước một sức ép khác còn lớn và có tính trực tiếp hơn, đó là nâng cao và duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, đồng thời tạo ra công ăn việc làm, lấy phát triển kinh tế để bảo đảm ổn định chính trị và xã hội.

Trở lại khía cạnh sở hữu về đất đai, vấn đề chính ở chỗ các dự án kinh tế có phải luôn luôn được triển khai như cam kết của nhà đầu tư hay không, để qua đó cơ quan Nhà nước vẫn bảo đảm được các quy hoạch và kế hoạch về sử dụng đất? Thực tế vừa qua, trong phần lớn các trường hợp rủi ro đối với triển khai dự án, các cơ quan quản lý Nhà nước lại khó có thể thu hồi mà thường sẵn sàng đồng ý để chủ đầu tư gia hạn sử dụng đất, chuyển đổi mục đích và/hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân khác. Đối với không ít dự án kinh tế, các quá trình gia hạn, chuyển đổi và chuyển nhượng lại có thể tiếp tục diễn ra thêm một vòng hay nhiều vòng nữa, để cuối cùng, các khu đất đã được cấp vẫn nguyên hình là “đất” trong khi các lợi ích của các chủ đầu tư liên quan vẫn được thu hồi đầy đủ, thông qua việc quay vòng kinh doanh và buôn bán cái gọi là “thương quyền” đối với đất đai.

Đối với đất ở dân sinh, “sổ đỏ” chỉ tái xác nhận “ai ở đâu vẫn ở đấy”, và do đó, người dân không thấy có ích lợi gì một khi nhận thức rằng đó là đất thuộc sở hữu của ông cha để lại hoặc đã bỏ tiền ra mua từ trước, nay để nhận được một “tờ giấy màu đỏ” lại phải nộp tiền và làm các thủ tục phiền hà. Nếu đất có “sổ đỏ” sẽ dễ dàng mua bán, chuyển nhượng hơn thì xét từ lợi ích của người dân, đó cũng chỉ là các thủ tục do chính Nhà nước đặt ra trong khi từ trước đó, họ vẫn giao dịch bằng giấy viết tay.

Trên thực tế, trong các giao dịch đất đai hiện nay, đặc biệt là đất ở, nếu đối với cơ quan nhà nước, khi tiến hành các thủ tục hành chính liên quan, chỉ cần dựa trên “sổ đỏ” được cấp cho các mảnh đất. Song, theo tập quán của giao dịch dân sự thì người dân vẫn hiểu rằng người đứng tên trên “sổ đỏ” chỉ là người đại diện cho các chủ sở hữu để tiếp nhận “sổ đỏ” mà thôi. Do vậy, khi tiến hành giao dịch, bên mua vẫn yêu cầu có sự đồng ý của tất cả những đồng sở hữu hoặc có quyền và lợi ích liên quan khác đối với mảnh đất. Trong trường hợp này, có thể thấy rằng các “yếu tố dân sự” được coi trọng và thực hiện triệt để hơn các “yếu tố hành chính”.

“Sổ đỏ”, một khi được cấp, đương nhiên sẽ tạo thuận lợi hơn cho bên cho vay tiền (nhất là các ngân hàng) tiếp nhận thế chấp đối với quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp và các khó khăn lại xảy ra khi xử lý các thế chấp như vậy. Ngân hàng hay các bên cho vay hoàn toàn không dễ dàng phát mại tài sản thế chấp hay tiếp nhận quyền sử dụng đất thay thế bên vay, bởi phụ thuộc một loạt các điều kiện được pháp luật quy định về chủ thể, mục đích, hình thức và thời hạn sử dụng đất như đã nói ở trên.

Hàng loạt các “sổ đỏ” đã được cấp sau các nỗ lực rất lớn của các cơ quan quản lý địa chính trong thời gian qua sẽ có thể phát huy tác dụng rất lớn cho đời sống dân sinh và đời sống kinh tế nếu nó thật sự là các “chứng thư về sở hữu” đối với đất đai. Tuy nhiên với tính chất chỉ là các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (như tên gọi của nó), trong khi quyền sở hữu vẫn nằm trong tay “người khác” thì tác dụng và ý nghĩa của nó đã bị hạn chế rất nhiều.

Khi nói đến phát triển trong nền kinh tế thị trường tức là phát huy quyền tự do sáng tạo của người dân với tư cách là các chủ thể kinh tế. Theo đó, người dân cần phải có quyền tự do sử dụng các “mảnh đất”, “thửa đất” của mình như một phương tiện và/hoặc tài sản (hay vốn) kinh doanh. Nói đến “phương tiện” là nói đến tính linh hoạt và đa dạng về mục đích sử dụng. Còn nói đến “vốn” hay “tài sản” trong kinh doanh tức nói đến khả năng chuyển dịch đơn giản và thuận tiện để “quay vòng” làm tăng giá trị đồng vốn và tài sản.

Các khả năng này, rất tiếc đều bị cản trở hay hạn chế chính bởi cơ chế “sở hữu toàn dân”, trong đó điển hình là năm loại giới hạn về (i) chủ thể sử dụng đất (tức ai được giao đất hay thuê đất với các tiêu chí do cơ quan quản lý nhà nước quyết định), (ii) mục đích sử dụng đất (với các phân định rất chi tiết về các loại đất và hình thức pháp lý để có đất phụ thuộc vào mục đích sử dụng), (iii) quyền liên quan đến việc sử dụng (ví dụ quyền thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế v.v..), (iv) thời hạn sử dụng đất (được quy định phổ biến là 20, 30 hay 50 năm, trừ đất ở dân sinh), và (v) thủ tục hành chính nặng nề và phức tạp để chuyển dịch và chuyển đổi quyền sử dụng đất.

Trong thời gian qua, các “lạm dụng” trong lĩnh vực đất đai chủ yếu đến từ các doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước tại các địa phương. Sự “lạm dụng” xảy ra đặc biệt nghiêm trọng trong hai khía cạnh (i) quy hoạch sử dụng đất và (ii) thu hồi quyền sử dụng đất hiện hữu của người dân (nhất là nông dân) để xây dựng các dự án công nghiệp và thương mại.

Về mặt lý thuyết, quyền quy hoạch sử dụng đất đương nhiên thuộc chủ sở hữu đất. Vậy nếu chủ sở hữu là “toàn dân” thì nhân dân phải được tham gia xây dựng quy hoạch. Trên thực tế, nhân danh vai trò “đại diện chủ sở hữu toàn dân”, các cơ quan chính quyền nắm giữ toàn quyền và độc quyền trong việc lập và sửa đổi quy hoạch. Quá trình lạm dụng sẽ bắt đầu một cách “bài bản” khi có các nhóm lợi ích tư nhân từ phía các doanh nghiệp tham gia, thậm chí chi phối, dẫn đến hậu quả là quy hoạch không còn phục vụ các mục đích “quốc kế dân sinh” mà chỉ nhằm hỗ trợ các nhóm lợi ích tư nhân tìm kiếm lợi nhuận thông qua các dự án kinh tế cụ thể.

Ngoài ra, Luật đất đai và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đã hợp thức quyền thu hồi đất của người đang sử dụng để phát triển các dự án kinh tế mà không tính đến tính chất và mục tiêu của các dự án này. Khác với nền kinh tế kế hoạch trước đây, trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các dự án kinh tế được hình thành trên cơ sở các cân nhắc về lợi ích thương mại và vì động cơ lợi nhuận của cá nhân hoặc nhóm cá nhân các nhà kinh doanh. Một sự cần thiết hay nhất thiết phải phân biệt giữa dự án vì lợi ích công cộng (trong đó có lợi ích của chính những người bị thu hồi đất) và dự án vì mục đích thương mại thuần túy đã không được tính đến khi ban hành các văn bản pháp luật về đất đai và đầu tư. Do đó, hậu quả của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa thời gian qua là sự mất và giảm nghiêm trọng “đất trồng lúa” và biến hàng triệu nông dân thành “tay trắng” về phương diện tư liệu sản xuất. Sự “lạm dụng” đó có nguyên nhân từ một cơ chế tâm lý và pháp lý đặc thù hình thành từ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

5. Báo An ninh Thủ đô đưa các tin:

* Hôm qua (29-9), Bộ Công an (BCA) Việt Nam đã tổ chức Hội nghị Những người đứng đầu Cơ quan An ninh các nước ASEAN (MACOSA) lần thứ nhất. Đại tướng Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng BCA; Trung tướng Bùi Văn Nam, Thứ trưởng BCA - Trưởng đoàn BCA Việt Nam; Trung tướng Tô Lâm, Thứ trưởng BCA Việt Nam, cùng những người đứng đầu Cơ quan An ninh các nước ASEAN, đại diện Đại sứ quán các nước ASEAN tại Hà Nội và đại diện Bộ Ngoại giao, Ban Thư ký ASEAN, Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng, Vụ Hợp tác Quốc tế và các tổng cục, vụ, cục, các đơn vị địa phương trực thuộc Bộ Công an Việt Nam đã dự hội nghị.

Phát biểu khai mạc Hội nghị MACOSA lần thứ nhất, Trung tướng Bùi Văn Nam nêu rõ: “Năm 2010 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong 15 năm (1995 - 2010) Việt Nam gia nhập Hiệp hội ASEAN và tiếp nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Đây cũng là thời điểm vô cùng quan trọng, năm “bản lề” để các quốc gia thành viên ASEAN thể hiện cao độ quyết tâm biến mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN trong năm 2015 thành hiện thực.

Kết thúc hội nghị, các đại biểu đã thống nhất chung về vị trí của MACOSA là một bộ phận quan trọng nằm trong tổng thể cơ chế hợp tác Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN. MACOSA sẽ được tổ chức thường xuyên theo đồng thuận của tất cả các nước thành viên, mong muốn cuộc họp tiếp theo sẽ được tổ chức tại  Indonesia. Kết thúc hội nghị, đại biểu các nước ASEAN một lần nữa đánh giá cao sáng kiến và công tác tổ chức chu đáo, trọng thị, đầy nỗ lực của Bộ Công an Việt Nam. Sáng kiến tổ chức MACOSA sẽ từng bước hoàn thiện, tạo ra một cơ chế hợp tác an ninh chặt chẽ, hiệu quả hơn giữa các nước ASEAN, góp phần xây dựng Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN, giữ vững hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực.

* Ngày 29-9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến lần cuối vào 2 dự án: Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật Viên chức. Hai dự luật này sẽ được trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 sắp tới.

Một trong những điểm sửa đổi quan trọng trong dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được trình UBTVQH tại phiên họp lần này là “không quy định giải quyết khiếu nại bằng biện pháp hành chính”. Bên cạnh thay đổi này, dự thảo luật chỉ quy định chung về thủ tục, nguyên tắc thực hiện hòa giải các vụ việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hướng tới xã hội hóa công tác giải quyết tranh chấp và giảm tải cho Tòa án; đồng thời giao Chính phủ quy định việc thành lập và hoạt động của các tổ chức hòa giải để tránh phát sinh những “trung tâm hòa giải” chỉ là những tổ chức hoạt động kiếm lợi nhuận hoặc là công cụ cạnh tranh không lành mạnh.

Trên cơ sở nhận định rằng phần lớn các tranh chấp của người tiêu dùng là đơn lẻ, có giá trị không lớn, trong khi trình tự, thủ tục giải quyết các vụ kiện dân sự theo quy định hiện hành còn quá phức tạp, dự thảo luật có quy định về thủ tục xét xử đơn giản. Tuy nhiên, những vụ việc lớn, có yếu tố hình sự (như làm hàng giả, hàng nhái, ăn bớt của người tiêu dùng với quy mô lớn...) không thuộc phạm vi được áp dụng thủ tục xét xử đơn giản.

Phát biểu tổng kết phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên đồng tình với quan điểm của Ban soạn thảo: “Với những vụ việc nhỏ mà đợi hoàn tất theo trình tự thủ tục tố tụng hiện nay thì có khi chẳng còn dấu vết hay bằng chứng gì mà xét xử nữa, trong khi đó việc sửa đổi Luật Tố tụng Dân sự cần một khoảng thời gian rất dài. Cho nên trước mắt cần quy định thủ tục xét xử đơn giản trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đến khi có quy định tố tụng mới chúng ta sẽ áp dụng thống nhất”.

* Chiều 29-9, UBTVQH đã thảo luận, cho ý kiến vào dự án Luật Viên chức. Tại phiên họp, UBTVQH tán thành với quan điểm dự luật chỉ điều chỉnh đối với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Bởi vì, mặc dù cùng thực hiện các hoạt động cung ứng dịch vụ trong những lĩnh vực giống nhau, nhưng điểm khác biệt quan trọng và cơ bản nhất giữa hai nhóm đối tượng (viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập) là về phương diện quản lý. Các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập đang được tổ chức và hoạt động chủ yếu theo các loại hình doanh nghiệp; việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng lao động trong các đơn vị này cơ bản dựa trên quan hệ lao động theo quy định của Bộ luật Lao động. Do vậy, không thể xây dựng cơ chế pháp lý chung cho việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng đối với các loại đối tượng này.

Liên quan tới quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài được tham gia dự tuyển làm viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập, UBTVQH đưa ra 2 phương án. Thứ nhất, nếu người Việt Nam định cư ở nước ngoài đăng ký tuyển dụng, ngoài các tiêu chuẩn, điều kiện được nêu ở dự luật, còn phải đủ các điều kiện khác do Chính phủ quy định. Thứ hai, chưa đưa quy định tuyển dụng người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào dự luật này

6. Báo điện tử Dân tríbài Bắt giảng viên đại học vì hoạt động lật đổ chính quyền. Bài báo đưa tin: Sáng 29/9, Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an công bố việc bắt giữ, khám xét đối với Phạm Minh Hoàng, giảng viên Đại học Bách khoa TPHCM để điều tra về hành vi “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Theo tài liệu của CQĐT, Phạm Minh Hoàng (SN 1955 tại Vũng Tàu; quốc tịch Việt Nam, Pháp) là giảng viên ĐH Bách khoa TPHCM nhưng lại tham gia tổ chức khủng bố lưu vong Việt Tân, có nhiều hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Do đó, ngày 13/8 Cơ quan An ninh điều tra đã ra lệnh bắt và khám xét đối với Phạm Minh Hoàng.

Từ khi thành lập vào năm 1982 đến nay, tổ chức này đã thực hiện nhiều hoạt động khủng bố, đưa lực lượng vũ trang xâm nhập vào Việt Nam nhằm tiến hành các hoạt động bạo loạn, khủng bố, âm mưu cướp chính quyền ở một số vùng chiến lược của Việt Nam nhưng đều bị phát hiện, ngăn chặn và bắt giữ.

Ngoài hoạt động vũ trang, Việt Tân còn cử các thành viên còn giữ bí mật, có vỏ bọc hợp pháp xâm nhập về nước hoạt động dưới nhiều hình thức như thăm thân, du lịch, đầu tư, giáo dục, trí thức… Các lực lượng này có nhiệm vụ tuyên truyền, lôi kéo người mới vào Việt Tân và chống phá nhà nước từ bên trong. Phạm Minh Hoàng là một người trong số đó.

Kết quả điều tra cho thấy Phạm Minh Hoàng tham gia vào tổ chức Việt Tân khi còn ở Pháp. Năm 1998, Nguyễn Thị Thanh Vân và Nguyễn Ngọc Đức lôi kéo Hoàng tham gia tổ chức này.

Thực hiện kế hoạch “Sang sông” của Việt Tân (chuẩn bị cơ sở hạ tầng nhằm dồn tiềm lực ở hải ngoại về Việt Nam, tiến hành các hoạt động tuyên truyền, lôi kéo, kích động biểu tình, kêu gọi lật đổ chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo), Hoàng được cử về Việt Nam xin làm giảng viên hợp đồng của ĐH Bách khoa TPHCM vào năm 2002.

 Từ tháng 7/2002 đến tháng 5/2010, Hoàng lấy bút danh là Phan Kiến Quốc viết 29 bài có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của nhà nước gửi cho tổ chức phản động Việt Tân để chúng phát tán trên mạng internet.

Trong thời gian này, theo chỉ đạo của Việt Tân, Hoàng tìm chọn, tập hợp xây dựng lực lượng nòng cốt cho Việt Tân ở trong nước. Hoàng đã lôi kéo vợ (Lê Thị Kiều Oanh) và em ruột (Phạm Duy Khánh) tham gia tổ chức này.

Hoàng còn cùng một số đối tượng cốt cán trong tổ chức nhiều lần nhóm họp, bàn về việc phát triển lực lượng và bộ máy lãnh đạo của tổ chức tại nhà riêng (số 423 Nguyễn Tri Phương, phường 8, quận 10, TPHCM).

Tháng 11/2009, Hoàng cùng vợ và Nguyễn Thanh Hùng đi Malaysia tham dự khóa học “Đấu tranh bất bạo động” do Việt Tân tổ chức. Nội dung khóa học chủ yếu là các kỹ năng bảo mật thông tin trên mạng internet; cách thức tiến hành các cuộc bạo động lật đổ ở Ba Lan và một số nước Đông Âu; thảo luận cách thức áp dụng đấu tranh bất bạo động ở Việt Nam nhằm lật đổ thể chế chính trị hiện nay ở Việt Nam…

Từ tháng 1/2010 đến tháng 5/2010, Hoàng cùng 3 thành viên khác của Việt Tân là Phạm Duy Khánh, Jolie Trang Huỳnh, Huỳnh Châu tổ chức 2 khóa, tổng cộng 4 lớp học về “kỹ năng mềm” tại TPHCM. Đây là một thủ đoạn thu gom người, lồng vào các nội dung tuyên truyền, kích động và phát hiện người để lôi kéo vào tổ chức Việt Tân.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Nhân dân có bài Văn bản địa phương, mỗi nơi một kiểu. Bài báo phản ánh: Trong số 23 văn bản trái luật bị Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của Bộ Tư pháp phát hiện và bị “lờ” đi trong thời gian dài, nhiều văn bản của UBND các tỉnh liên quan đến đời sống dân sinh được ban hành trái quy định hiện hành. Nhưng khi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền “gõ” lại nhất định không chịu “phản ứng” và hậu quả của việc này chỉ có người dân gánh chịu mà thôi.

Kiểm tra Quyết định số 98/2007/QĐ-BTC về Qui chế tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ bồi dưỡng Kế toán trưởng của Bộ Tài chính (QĐ số 98), Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của Bộ Tư pháp phát hiện, điều 13 QĐ số 98 qui định việc “vi phạm hành chính” trong việc tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200 ngàn đồng đến 20 triệu đồng, tương ứng với các hành vi vi phạm.

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính qui định rất rõ, Chính phủ mới có thẩm quyền qui định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu qủa....Đồng thời, đối chiếu với Nghị định 185/2004/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, thì không có hành vi nào như Khoản 2 Điều 13 của QĐ số 98! Thực ra, nếu thấy cần xử phạt hành chính trong việc tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng thì Bộ trưởng Bộ Tài chính phải đề nghị Chính phủ bổ sung hành vi đó vào Nghị định 185. Việc Bộ Tài chính tự ý qui định hành vi vi phạm hành chính và mức xử phạt theo QĐ số 98 là trái thẩm quyền.

Còn tại Nghệ An, ngày 5-3-2008, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số 641/QĐ-UBND cho phép Thanh tra đô thị thành phố Vinh được toàn quyền xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng công trình hạ tầng đô thị và quản lý sử dụng nhà, lĩnh vực giao thông đường bộ, lĩnh vực bảo vệ môi trường, cảnh quan đô thị trên địa bàn TP Vinh. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định, quyền xử lý vi phạm hành chính được giao cho Chánh Thanh tra chuyên ngành cấp Sở trở lên chứ không thể như UBND tỉnh Nghệ An vì Thanh tra đô thị  không có thẩm quyền này.

Chưa kể, việc giao cho Thanh tra đô thị thầm quyền xử phạt cả trong lĩnh vực giao thông đường bộ, xây dựng, quản lý sử dụng nhà và môi trường đã trái với hàng loạt các qui định tại các Nghị định 146/2007/NĐ-CP, Nghị định 180/2007/NĐ-CP, Nghị định 121/2004/NĐ-CP....

Ngày 30-3-2007, UBND TP.HCM ban hành Quyết định số 54/2007/QĐ-UBND, qui định về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại TP Hồ Chí Minh.

Trong danh mục các loại giấy tờ về tạo lập nhà ở, đất ở làm cơ sở pháp lý để cấp giấy chứng nhận, UBND TP.HCM qui định gồm cả: Biên bản nghiệm thu công trình xây dựng hoàn thành để đưa vào sử dụng..., Biên bản nghiệm thu hoàn thành đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và bàn giao cho UBND quận, huyện hoặc Sở Giao thông Công chính quản lý để đưa vào sử dụng theo đúng qui định của pháp luật về xây dựng.

Nhưng, đối chiếu với các loại giấy tờ làm cơ sở để cấp Giấy chứng nhận theo Luật Đất đai và các Nghị định 90/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở và Nghị định 88/2009/NĐ-CP về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất,  đều không qui định các loại giấy tờ nói trên!

Còn UBND thành phố Hà Nội, điều 3 Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND ngày 30-3-2009 về hạn mức giao đất mới, hạn mức công nhận đất ở đối với thửa đất có vườn, áo trong khu dân cư, kích thước, diện tích  đất ở tối thiểu  được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố cũng chưa phù hợp quy định luật. Vì văn bản này quy định:

 “ thửa đất được hình thành từ việc tách thửa và thửa đất còn lại sau khi tách thửa nếu đảm bảo các điều kiện sau thì được cấp Giấy chứng nhận:

a) có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3m trở lên

 b) có diện tích không nhỏ hơn 30m2/thửa”

Nếu cứ chiếu theo điểm a thì chỉ cần diện tích tối thiểu này chín m2 là có thể được cấp Giấy chứng nhận. Điều này lại “đá” điểm b khi quy định diện tích không nhỏ hơn 30m2/thửa. Thêm vào đó, quy định như điểm b sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể để thừa kế và nhận thừa kế, các chủ thể tặng/cho và nhận tặng/cho quyền sử dụng đất, đồng thời chưa phù hợp với quy định hiện hành.

Tính đến nay các VBQPPL hiện hành về vấn đề này chưa quy định một mức diện tích tối thiểu cụ thể. Nếu quy định không rõ còn vướng như trên sẽ khiến những kẻ lợi dụng, lách luật để xây dựng những ngôi nhà siêu mỏng, làm ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị thủ đô, cũng như không đảm bảo được tính an toàn của công trình xây dựng nói riêng.  

Một điều dễ nhận thấy nhất là, mục tiêu của Quyết định 58 nhằm hạn chế dân chúng "xé nhỏ" nhà ở, đất ở do nhu cầu dân sinh từng bước xây dựng đô thị văn minh hiện đại. Nhưng sau hơn một thời gian thực hiện mục tiêu trên chưa đạt được một cách rõ nét khi hàng loạt nhà “siêu mỏng” “siêu méo” lập tức mọc lên đầy thách thức.

2. Báo Thanh niên Online đưa tin: GS-TS Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), bày tỏ quan điểm cùng PV Thanh Niên xoay quanh việc cần làm gì để có thể xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân như nội dung dự thảo Cương lĩnh trình Đại hội Đảng XI.

Theo GS-TS Hạnh, một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền chính là thượng tôn pháp luật, pháp luật phải được tuân thủ và trở thành công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước pháp quyền.

Do dân là phải từ dân lập ra và tốt nhất là trực tiếp lập ra. Của dân phải là thực sự do dân làm chủ, giám sát và kiểm soát, còn vì dân là toàn bộ hệ thống nhà nước đó phải hoạt động mang lại những giá trị thực sự cho dân và đáp ứng ngày càng cao sự mong đợi của nhân dân. 

Chưa thể coi là Nhà nước pháp quyền thực sự khi mà trong quá trình hình thành bộ máy Nhà nước, dân chưa được quyền lựa chọn cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước một cách đúng nghĩa. Lấy ví dụ việc bầu cử, có khi dân thậm chí không biết rõ người mình bầu, vì một số người được đề cử từ nơi khác đến; rồi cứ phải cơ chế hiệp thương, lựa chọn qua những người đại diện, các khâu sàng lọc khác nhau. Chính vì thế, việc dân khi bầu cán bộ vào các cơ quan dân cử qua lá phiếu là chưa thật chính xác.

Thứ hai, khi Nhà nước của dân thì những viên chức nào, hoặc cơ quan nào làm không được việc thì dân phải có quyền bãi chức, bãi nhiệm. Nhà nước của dân thì viên chức nhà nước làm gì, cơ quan nhà nước làm gì dân phải biết, phải kiểm soát được. Vì vậy, nếu nói Nhà nước của dân thì phải thực sự để dân giám sát và bỏ phiếu tín nhiệm. Vấn đề này trong Cương lĩnh, trong Chiến lược phát triển giai đoạn 2011 - 2020 đã nêu. Điều quan trọng là tới đây, những văn bản pháp luật sắp ban hành, kể cả trong Hiến pháp sửa đổi, chúng ta phải quy định làm sao để đảm bảo được quyền của dân trực tiếp lựa chọn những đại biểu mà họ cho là xứng đáng, và những đại biểu đó phải thực sự gắn với dân.

Muốn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đúng như Cương lĩnh đặt ra, phải sửa bất cập từ quá trình xây dựng pháp luật, phải làm cho pháp luật phù hợp với nhu cầu cuộc sống của nhân dân chứ không phải chỉ thuận lợi cho việc quản lý. Trong thực thi pháp luật phải đảm bảo công bằng; quy định rõ dân được quyền làm gì, quan chức được làm gì, quan làm sai thì sẽ xử như thế nào, phải rất cụ thể như Bộ luật Hồng Đức thời vua Lê Thánh Tông đã từng quy định.

Đặc biệt, phải tăng cường vai trò giám sát mà giám sát tốt nhất, hiệu quả nhất là giám sát từ dân. Mà muốn nhân dân giám sát được thì phải minh bạch trong tổ chức hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Cụ thể dân có quyền được biết ngân sách, thu nhập của địa phương được chi tiêu như thế nào; được biết những người lãnh đạo của mình thu nhập bao nhiêu, thu nhập đó có chính đáng hay không? Dân phải biết quy trình thủ tục liên quan đáp ứng những yêu cầu của người dân mà pháp luật quy định phải được công khai. Minh bạch không chỉ đồng nghĩa với công bố quy trình, thủ tục mà đòi hỏi các quy trình đó phải rõ ràng, dễ hiểu và thuận lợi cho dân để dân có điều kiện làm tốt vai trò giám sát.

Cái gì không thuộc bí mật quốc gia mà thuộc điều hành của Nhà nước thì dân phải biết và dân muốn hỏi thì được trả lời. Viên chức thực thi nhiệm vụ đó phải trả lời dân. Dân cần biết được người nào làm tốt, người nào làm không tốt. Cần có những tiêu chí đánh giá viên chức nào làm được việc, viên chức nào không làm được việc. Từ đó dân mới đủ cơ sở quyết định được vấn đề.

Ông Hạnh cho rằng, để có Nhà nước pháp quyền thì bên cạnh quyết tâm chính trị rất lớn từ phía Đảng, Nhà nước, cần có sự đồng thuận, ủng hộ, đồng thời cả sự đấu tranh tích cực của quần chúng đối với những sai trái trong bộ máy Nhà nước.

3. Báo An ninh Thủ đô có bài Cán bộ hách dịch, sách nhiễu còn phổ biến. Bài báo phản ánh: Chiều ngày 28-9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe và cho ý kiến vào Báo cáo giám sát việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công dân và doanh nghiệp theo chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010.

Nói về kết quả của công tác cải cách hành chính (CCHC) thời gian qua, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, các cơ quan liên quan đã rà soát tới 5.421 thủ tục hành chính. Đồng thời, đề xuất sửa đổi, bổ sung 4.146 TTHC, bãi bỏ 480 thủ tục, thay thế 180 thủ tục... Ông Nguyễn Xuân Phúc cho biết: “Các phương án cải cách ứng với tiết kiệm được khoảng 30.000 tỷ đồng mỗi năm. Sắp tới, Chính phủ dự kiến sẽ xem xét thông qua phương án đơn giản hóa 5.000 TTHC...”.

Theo ông Nguyễn Văn Thuận - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho biết, chương trình CCHC của Chính phủ đã được triển khai trong thời gian dài, đạt một số kết quả tích cực. Tuy vậy, nhìn chung vẫn chưa đạt yêu cầu đặt ra.

Phân tích nguyên nhân làm chậm CCHC, đoàn giám sát chỉ rõ: “Cải cách TTHC gặp trở ngại không nhỏ bởi những thói quen quản lý và cơ chế “xin-cho” và cũng đụng chạm đến lợi ích cục bộ của nhiều cơ quan và cán bộ, công chức. Một bộ phận lãnh đạo, cán bộ, công chức chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác CCHC nói chung và cải cách TTHC nói riêng”. Đã vậy, mô hình một cửa, một cửa liên thông ở một số nơi còn mang nặng tính hình thức, thực tế chỉ mới là nơi tiếp nhận và trả kết quả, chưa trực tiếp giải quyết mà phải nhờ tới bộ phận chuyên môn. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, nhân tố quan trọng hơn cả là con người. “Phải chú ý đội ngũ cán bộ, bởi nó quyết định tất cả. Bộ máy có tinh giản bao nhiêu mà cán bộ có vấn đề thì cũng không thể có kết quả tốt” - Chủ nhiệm UB Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, ông Phùng Quốc Hiển nói.

Góp ý vào báo cáo giám sát, các Ủy viên UBTVQH đều nhất trí với các nhận định của đoàn giám sát. Cùng với đó, các Ủy viên UBTVQH cũng đề nghị làm rõ thêm một số nguyên nhân cũng như giải pháp cho công tác CCHC trong những năm tới. Một số Ủy viên UBTVQH cũng cho rằng, cần xác định CCHC là quá trình thường xuyên, lâu dài, phụ thuộc vào nhiều yếu tố và cần sự quyết tâm rất cao. Ông Phùng Quốc Hiển phân tích: “Chúng ta đã triển khai hàng chục năm nay nhưng CCHC vẫn hết sức nan giải, không thể mong chỉ qua một cuộc giám sát là thay đổi lớn được ngay mà còn phải chờ đợi sự vào cuộc đồng bộ từ nhiều phía...”.