Trong buổi sáng ngày 11/8/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Người lao động phản ánh: Ngày 10-8, tại Hà Nội đã diễn ra đại hội thành lập Hiệp hội Doanh nhân VN ở nước ngoài do Ủy ban Nhà nước về người VN ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao), Bộ Nội vụ, Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp VN phối hợp tổ chức.
Tham dự đại hội có gần 300 doanh nhân Việt kiều từ gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ; hơn 40 đại biểu của các cơ quan Trung ương và địa phương; gần 80 đại diện lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty, hiệp hội ngành nghề và doanh nghiệp trong nước.Theo TTXVN, đại hội đã thông qua điều lệ, phương hướng hoạt động của hiệp hội và Ban Chấp hành gồm 32 ủy viên do ông Phạm Nhật Vượng, Tập đoàn Technocom (Ukraine), làm chủ tịch. Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm khẳng định Chính phủ VN ủng hộ mạnh mẽ việc thành lập hiệp hội, sẽ hỗ trợ tích cực và tạo điều kiện thuận lợi nhất để hiệp hội hoạt động hiệu quả.
Hiệp hội Doanh nhân VN ở nước ngoài có tên tiếng Anh là Business Association of Overseas Vietnamese (BAOOV), đặt trụ sở tại Hà Nội và có các chi nhánh văn phòng đại diện trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Theo thông báo của Văn phòng Chính phủ tại công văn số 5430/VPCP-ĐP, ngày 10-8, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã có ý kiến về việc ủy quyền duyệt, ký các văn bản của Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Theo đó, Phó Thủ tướng ủy quyền cho Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Phó Trưởng ban Chỉ đạo thường trực duyệt, ký ban hành các văn bản: Quyết định thành lập các tiểu ban giúp Ban Tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam; quyết định ban hành Kế hoạch hoạt động của Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam; hướng dẫn Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam cấp tỉnh, huyện; danh sách các tỉnh, huyện tiến hành đại hội và phương án phân bổ đại biểu cho các tỉnh, thành phố chọn cử đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam; đồng thời Ủy ban Dân tộc rà soát kỹ thành phần cơ cấu dân tộc và đại biểu tham dự đại hội.
Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) có trách nhiệm cung cấp số liệu sơ bộ kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 về thành phần các dân tộc thiểu số, dân số của từng dân tộc cho Ủy ban Dân tộc trước ngày 15-8-2009.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Sắp tới: Luật sư vòi vĩnh thân chủ sẽ bị phạt". Bài báo phản ánh: Một trong những lĩnh vực được Nghị định 60 về phạt hành chính trong lĩnh vực tư pháp vừa được Chính phủ ban hành là siết lại một số kẽ hở liên quan hoạt động của luật sư. Nhiều hành vi như tự ý tiết lộ thông tin của khách hàng, vòi vĩnh thêm tiền, vật chất ngoài thù lao và chi phí ghi trong hợp đồng... sẽ bị phạt khá nặng. Nghị định 60 có hiệu lực từ ngày 18-9-2009, thay thế Nghị định 76 năm 2006.
“Với Nghị định 60, các luật sư thường hoạt động ở ngoại tỉnh sẽ gặp khó khăn” - luật sư Đào Xuân Thành (Đoàn luật sư tỉnh Bình Phước) dự đoán. Hiện nay, nhiều luật sư có văn phòng ở tỉnh này nhưng mở chi nhánh và thường xuyên hoạt động ở tỉnh, thành khác. Khi được đoàn luật sư tỉnh mình phân công trợ giúp pháp lý miễn phí trong các vụ án thì luật sư đó có thể không theo nổi và từ chối. Nếu làm vậy, sắp tới họ sẽ bị phạt 3-5 triệu đồng.
Luật sư Lê Văn Bình (Đoàn luật sư TP.HCM) quan tâm đến khoản 2 Điều 24 Nghị định 60 quy định: Luật sư không thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của mình khi thực hiện dịch vụ pháp lý thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500 ngàn đến một triệu đồng. “Vậy nếu trong hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ghi rõ quyền, trách nhiệm của hai bên nhưng đương sự “tố” luật sư không thông báo, thông báo không đầy đủ... thì luật sư có thể bị phạt hay không?” - ông Bình thắc mắc.
Theo luật sư Nguyễn Thế Phong, ủy viên Ban thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Nghị định 60 quy định những hành vi bị xử phạt trong hành nghề luật sư là cần thiết. Qua đó bảo đảm quyền lợi cho khách hàng (những người kém am hiểu pháp luật), giúp họ tránh bị luật sư (những người am hiểu pháp luật) chèn ép. “Tuy nhiên, một số quy định tôi cho rằng phải có hướng dẫn cụ thể hơn. Chẳng hạn như việc không thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ được hiểu như thế nào? Thông báo bằng hình thức nào, thời gian nào? Hay như việc từ chối thực hiện trợ giúp pháp lý phải quy định cụ thể từ chối trong trường hợp nào vì hiện những quy định này còn rải rác, luật sư khó lường hết được” - luật sư Phong phân tích.
Cạnh đó, Nghị định 60 bổ sung một hành vi vi phạm về bí mật thông tin của khách hàng. Nếu luật sư tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề mà không có văn bản đồng ý của khách hàng sẽ bị phạt 5-10 triệu đồng. “Với quy định này, luật sư dễ dàng bị phạt như... cơm bữa. Bởi vì trong quá trình hành nghề, thấy vụ án có nội dung, yếu tố pháp lý hay, các luật sư vẫn thường cung cấp cho báo chí mà không yêu cầu khách hàng viết văn bản cho phép” - luật sư Trương Thị Xem, Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre, nhận định.
Tuy nhiên, bà Xem đề nghị cần hướng dẫn rõ việc cấm luật sư cung cấp thông tin về vụ việc của khách hàng là không cung cấp cho ai, thời hạn tối đa hay tối thiểu để được cung cấp, cung cấp mà không ảnh hưởng quyền lợi khách hàng thì sao. “Chứ không lẽ quy định luật sư nhận việc của khách hàng làm xong thì phải câm nín, chừng nào chết thì thôi sao? Tôi thấy chưa hợp lý” - bà Xem nói.
Nghị định 60 cũng quy định luật sư sách nhiễu, lừa dối, ép buộc khách hàng đưa thêm tiền hoặc lợi ích vật chất khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý bị phạt 3-5 triệu đồng, tước chứng chỉ hành nghề 6-12 tháng. Theo luật sư Bình, nếu hiểu không khéo điểm này thì luật sư dễ “vừa mất tiền vừa mất nghề”. Trong thực tế, có những luật sư nhận việc xong, thấy phát sinh thêm việc nên yêu cầu thân chủ trả thêm chi phí, thù lao. Sắp tới, nếu hai bên vui vẻ thì không sao, ngược lại thân chủ mà “tố” thì luật sư có thể bị phạt.
Bà Xem còn chỉ ra hành vi vi phạm mà giới luật sư còn chưa rõ là móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định pháp luật là như thế nào (hành vi này sẽ bị phạt 5-10 triệu đồng).
Báo cũng có bài Cần luật riêng về sở hữu chung cư. Bài báo phản ánh: Trong hai ngày 6 và 7-8, Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức tọa đàm tổng kết tình hình thi hành các quy định về quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự 2005. Một vấn đề được các đại biểu quan tâm là sở hữu chung-riêng trong nhà chung cư.
Theo ông Nguyễn Mạnh Khởi, Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng), ở nhà chung cư, do cùng tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau trên cùng một diện tích nhà nên thực tế đã xảy ra nhiều tranh chấp, khiếu kiện về quyền sở hữu chung, sở hữu riêng giữa các hộ gia đình đang quản lý, sử dụng loại nhà ở này với chủ đầu tư. Ông Khởi dẫn hàng loạt tranh chấp xảy ra tại Hà Nội thời gian qua làm ví dụ, như tranh chấp về tầng hầm để xe tại khu chung cư The Manor, tranh chấp về sân thượng tại tòa nhà 17 tầng Cầu Diễn, Từ Liêm hay tranh chấp tầng một dùng để xe ở khu đô thị Trung Hòa-Nhân Chính...
“Hợp đồng mua bán nhà chỉ ghi giá bán 1 m2 chứ không thỏa thuận đối với phần sở hữu chung ở tầng một, người mua căn hộ đã đóng tiền mua hay chưa” - ông Khởi cho biết. Cũng theo ông Khởi, tháng 2-2009, Bộ Xây dựng đã ban hành thông tư trong đó có quy định mẫu hợp đồng mua bán, yêu cầu người mua và chủ đầu tư phải thỏa thuận rõ diện tích phần chung, phần riêng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn kẽ hở là thiếu chế tài xử phạt đối với những trường hợp lấn chiếm phần diện tích chung.
Ông Nguyễn Văn Thắng, Tổng Công ty Đầu tư và phát triển nhà Hà Nội, dẫn ngay trường hợp xảy ra tại tổng công ty mình làm ví dụ. “Năm ngoái, một chung cư chỗ chúng tôi cháy tầng một. Vậy ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại? Thực tế thì chúng tôi vẫn bồi thường nhưng nếu nói luật pháp bắt chúng tôi thì chưa chắc. Cũng xin nói thêm, những thiệt hại nhỏ thì còn bồi thường được chứ thiệt hại lớn thì... chịu” - ông Thắng cho biết.
“Quy định về phần sở hữu chung trong các văn bản pháp luật vẫn còn chung chung, chưa cụ thể” - ông Khởi nói về nguyên nhân của các tranh chấp. Bộ luật Dân sự có một điều về sở hữu chung trong nhà chung cư nhưng chỉ quy định mang tính nguyên tắc về quản lý, sử dụng phần sở hữu chung. Luật Nhà ở dù đã liệt kê các phần được coi là phần sở hữu chung nhưng cũng chưa đầy đủ. Nghị định 90/2006, Quy chế quản lý nhà chung cư năm 2008 phần lớn cũng chỉ nhắc lại quy định của Luật Nhà ở...
“Các văn bản này đều quy định nơi để xe là phần sở hữu chung của nhà chung cư nhưng khái niệm nơi để xe vẫn còn chung chung. Khái niệm này cũng chưa nêu rõ “để xe” có bao gồm tất cả các loại xe như xe đạp, xe máy và ôtô hay không nên có nơi chủ đầu tư cho rằng phần sở hữu này chỉ phục vụ cho gửi xe đạp, xe máy. Trong khi đó, người mua căn hộ lại cho rằng, phần sở hữu chung của tất cả các chủ sở hữu nên họ có quyền gửi xe ôtô tại phần chung này” - ông Khởi nói. Cũng theo ông Khởi, hiện nay xuất hiện loại nhà cao tầng vừa dùng để ở, vừa có một phần diện tích làm văn phòng thương mại cho thuê... Loại nhà này cũng chưa được pháp luật điều chỉnh cụ thể. “Chính vì pháp luật chưa quy định hết nên khi có tranh chấp, các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý và cũng không thể giải quyết dứt điểm” - ông Khởi kết luận.
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, TS Nguyễn Ngọc Điện, Đại học Quốc gia TP.HCM, nhận xét chịu trách nhiệm chính về những rối ren hiện nay liên quan đến vấn đề nhà ở thuộc về những người làm luật trong ngành xây dựng. “Sai sót cơ bản nhất là nhà làm luật cho rằng trách nhiệm chính trong việc xác định thành phần của các căn hộ chung cư là chuyện của người dân, trên cơ sở thỏa thuận. Trong khi đáng lẽ họ phải chủ động can thiệp ngay từ đầu để xây dựng, hoàn thiện công cụ phân ranh, giúp làm rõ sự riêng tư trong mối quan hệ cộng đồng đó” - ông Điện nói. Theo TS Điện, chủ đầu tư đã lợi dụng sự dễ dãi, “vô trách nhiệm” này của nhà làm luật để áp dụng luật chơi của mình ở thế thượng phong đối với người mua căn hộ. “Người dân thường không biết những “bẫy” nhà đầu tư đặt ra. Nói lừa lọc thì không đúng nhưng họ đã lợi dụng sự ngây thơ của người dân để áp đặt lên giao kèo” - TS Điện bức xúc. “Từ những nghiên cứu của mình, tôi cho rằng Việt Nam cần xây dựng riêng một luật về sở hữu chung cư” - TS Điện kiến nghị.
Báo cũng có bài Không thể duy trì một tiền lệ trái luật. Bài báo phản ánh: Chuyện luật mới về nhà, đất có hiệu lực nhưng lại chậm có văn bản hướng dẫn, gây khó khăn cho việc thực thi không phải mới xảy ra lần này.
Trước đây, khi nhà, đất đang được cấp giấy hồng, giấy đỏ theo Nghị định 60/1994 và Luật Đất đai 1993 thì Luật Đất đai 2003 ra đời yêu cầu tất cả các loại đất (không phân biệt có nhà hay không) đều được cấp giấy đỏ theo mẫu mới. Nhưng đến ngày luật này có hiệu lực (1-7-2004) thì mẫu mới lại chưa có! Mãi đến ngày 29-10-2004 mới có Nghị định 181 và phải đến ngày 16-11-2004 (tức hơn bốn tháng kể từ ngày luật có hiệu lực) thì nghị định này mới có hiệu lực. Tiếp nữa, Luật Nhà ở có hiệu lực ngày 1-7-2006 nhưng đến ngày 6-9-2006 mới có Nghị định 90 và riêng tại TP.HCM thì mãi đến ngày 30-3-2007 (tức sau tám tháng kể từ ngày luật có hiệu lực) mới có Quyết định 54 để triển khai quy trình cấp giấy mới.
Đáng lưu ý là trong thời gian chờ đợi văn bản hướng dẫn, việc cấp giấy chứng nhận cũng được nơi cấp, nơi không. Như trong khoảng thời gian từ 1-7-2004 đến trước ngày 16-11-2004, nhiều nơi tại TP.HCM vẫn tiếp tục cấp giấy hồng, giấy đỏ theo quy định cũ. Lúc đó, viện lẽ “không thể dừng lại vì sẽ gây ách tắc”, chẳng ai bị “bắt giò” về việc cấp giấy cũ như thế cả! Cũng từ chỗ đó, nhiều nơi đã “lỡ trớn” ký cấp luôn hai giấy cũ ngay cả khi Nghị định 181 có hiệu lực để rồi sau đó phải cày cục thu hồi số giấy cấp sai để cấp lại giấy mới cho chính xác...
Lần này, xem ra nguyên tắc thượng tôn pháp luật đã được đề cao hơn trước và đây chính là xuất phát điểm để Thủ tướng, Bộ TN&MT chỉ đạo, yêu cầu tất cả các địa phương phải dừng ngay việc cấp giấy cũ cho đến khi có mẫu giấy mới. Vấn đề là vì sao các bài học không hay cứ bị lặp đi lặp lại, dẫn đến những rắc rối không đáng có trong việc cấp giấy tờ nhà, đất? Theo khoản 2 Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, “văn bản quy định chi tiết phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết”. Tại sao các bộ chức năng không thực hiện đúng quy định này để hạn chế những ách tắc hoàn toàn có thể dự liệu trước? Hay có lẽ những lần vi phạm trước không bị sao cả thì lần này cũng có thể tiếp tục vi phạm và chắn chắn không ai bị xử lý?
2. Báo Thanh niên có bài Ôm án chờ thừa phát lại. Bài báo phản ánh: Nhiều người dân ở TP.HCM đang “ôm” những bản án khó đòi chờ gửi gắm thừa phát lại (TPL), cho dù đến tháng 9.2009 Nghị định về TPL mới có hiệu lực. Ông N.Q.P (ngụ Q.Tân Bình, TP.HCM) đang “ôm” bản án tòa tuyên buộc một công ty ở Q.12 phải trả nợ cho ông hơn 400 triệu đồng, đi tới đi lui nhiều lần đến nay vẫn chưa thi hành án (THA) được do cơ quan THA xác định công ty này thuộc diện không có điều kiện THA. Ông P. than: “Công ty vẫn hoạt động rầm rộ nhưng lại thuộc diện không có điều kiện THA, tui chỉ biết kêu trời vì không thể chứng minh công ty này có tiền”.
Theo luật sư Bùi Quốc Tuấn (Đoàn Luật sư TP.HCM), không chỉ ông P. mà nhiều người có bản án chờ thi hành đang rất bức xúc về việc xác minh điều kiện THA. “Thực tế nhiều đương sự sống với khối tài sản đồ sộ nhưng tự người dân không thể đi xác minh tài sản này của đương sự, nhờ đến THA thì sau đó được thông báo đương sự thuộc diện không có tài sản để THA. Tôi nghĩ nếu TPL đi vào hoạt động thì việc giải quyết khó khăn này sẽ dễ dàng hơn. TPL làm việc với tư cách tư nhân, không được nhà nước bao cấp nên hoặc là làm việc hiệu quả hoặc là tự bị đào thải”, luật sư Tuấn nhìn nhận và cho biết chính ông cũng đang mong TPL nhanh chóng đi vào hoạt động. “Rất nhiều trường hợp chúng tôi bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ, cứ long đong lận đận kiện tụng để rồi đến THA là tắc. Nay có thêm TPL sẽ tháo gỡ được nhiều”, luật sư Tuấn kỳ vọng.
Không chỉ ở TP.HCM, một số địa phương trên cả nước cũng đang sốt ruột mong mô hình TPL sớm được nhân rộng. Luật sư Lê Quang Y (Đồng Nai) cho biết đang được Công ty cổ phần bê tông Biên Hòa (BBCC) ủy quyền tìm cách “đòi” giúp số tiền hơn 5,6 tỉ đồng từ 15 bản án đã có hiệu lực vì “Nhiều năm qua cơ quan THA nhận đơn rồi... im lặng. Có nơi, chúng tôi phát hiện được tài sản báo cho cơ quan THA, họ cũng xuống làm nhưng chỉ qua loa chứ không làm hết trách nhiệm; có nơi cơ quan THA lại bảo đang chờ “chủ nợ” cổ phần hóa... Vì thế, 15 bản án có hiệu lực 3-4 năm nay vẫn nằm yên trong tủ”, luật sư Y nói và mong mỏi: “Sau khi thí điểm tại TP.HCM, nếu cơ quan chức năng cho phép áp dụng đại trà thì cũng rất mong mô hình này được mở rộng ra nhiều địa phương khác, như vậy, công tác THA được xã hội hóa, cơ quan THA giảm bớt áp lực với án tồn đọng”.
Tại TP.HCM, bình quân mỗi năm ngành tòa án phải tống đạt khoảng 840.000 văn bản, giấy tờ; ngành THA phải xác minh khoảng 50.000 việc và tống đạt khoảng 600.000 văn bản, giấy tờ. Khi những việc này được chuyển cho TPL, sự quá tải của 2 ngành này sẽ giảm đáng kể.
Theo Nghị định 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của TPL thực hiện thí điểm tại TP.HCM (từ ngày 1.7.2009 đến 1.7.2012), công việc của TPL đa dạng hơn chấp hành viên THA rất nhiều. Cụ thể là tống đạt theo yêu cầu của tòa án hoặc cơ quan THA dân sự; lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của tòa án theo yêu cầu của đương sự (trừ các trường hợp THA chủ động). Khi xác minh điều kiện THA, TPL có quyền xác minh ngoài địa bàn TP.HCM trong trường hợp đương sự cư trú, có tài sản hay có điều kiện THA ngoài TP.HCM...
Tuy có nhiều chức năng hơn cả THA, nhưng luật sư Lê Hồng Nguyên (Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng vẫn còn có những điểm “vướng” gây lo lắng cho những ai có nhu cầu mở văn phòng TPL. “Theo quy định, trường hợp cưỡng chế THA cần huy động lực lượng bảo vệ, văn phòng TPL phải lập kế hoạch, có văn bản gửi trưởng THA dân sự TP.HCM kèm theo hồ sơ THA để vị này xem xét, ra quyết định cưỡng chế THA, phê duyệt kế hoạch cưỡng chế... Quy định này dễ dẫn đến TPL bị lệ thuộc vì trưởng cơ quan THA không ra quyết định coi như TPL “bó tay”. Đó là chưa nói đến việc chỉ có một căn nhà mà vừa trả nợ cho đương sự (việc của TPL) vừa nộp án phí, nộp lại tiền thu lợi bất chính... (án chủ động, việc của THA) thì sẽ xử lý ra sao?”, luật sư Nguyên băn khoăn.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 11/8/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.