Điểm tin báo chí sáng ngày 14 tháng 9 năm 2009

14/09/2009
Trong buổi sáng ngày 14/9/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Không có “lệ”, luật đành bất lực. Bài báophản ánh: Các công trình công cộng như hệ thống truyền tải điện, tu bổ đường sá, cầu cống, trồng cây xanh bên đường... ngày càng phát triển để phục vụ yêu cầu phúc lợi chung của toàn xã hội. Nhưng sự tồn tại của nó đôi khi lại trở thành nguồn hiểm họa chung nếu không được quản lý chu đáo. Mỗi khi có sự cố tai nạn xảy ra, đương nhiên các cơ quan, đơn vị, cá nhân phụ trách phải chịu trách nhiệm pháp lý về mặt dân sự - phải bồi thường tổn thất cho nạn nhân và gia đình họ. Bên cạnh đó, tùy theo mức độ thiệt hại, người liên quan còn phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính đối với nhà nước. Thậm chí trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng về người và của, người liên quan còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nói nôm na là bị truy tố ra tòa để trị tội!
Nói chung về mặt pháp lý, hễ ai thiếu trách nhiệm, không làm tròn nhiệm vụ, có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác thì phải có nghĩa vụ xin lỗi, bồi thường. Thiệt hại đến đâu bồi thường đến đó, theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần thể hiện bằng tiền.
Vì vậy, trường hợp các công trình công cộng “lỡ” gây ra thiệt hại cho công dân (như điện giật chết người, người đi đường sụp hố ga thiệt mạng, cây xanh ngã đổ gây tổn hại cho sức khỏe, tài sản của người đi đường...) thì cơ quan nhà nước quản lý đương nhiên phải bồi thường nếu không chứng minh được lỗi hoàn toàn thuộc về phía nạn nhân hoặc vì lý do bất khả kháng. Đối với “nguồn nguy hiểm cao độ” (như xe cơ giới, hệ thống truyền tải điện, thú dữ...) thì dù người quản lý không có lỗi cũng phải bồi thường cho người bị thiệt hại do nó gây ra.
Thực tế lâu nay, nghĩa vụ bồi thường thường được thay thế bằng việc hỗ trợ. Việc này được thực hiện như là một nghĩa cử từ thiện để an ủi, ủy lạo người bị xui rủi, gặp họa giữa đường, “trời kêu ai nấy dạ”. Tình trạng này đã trở thành phổ biến chỉ vì các cơ quan chưa thấy hết trách nhiệm của mình, mà cũng thường khi do phía nạn nhân chưa hiểu rõ pháp luật để có cách bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Vả lại, do tâm lý không muốn khơi gợi chuyện đau lòng sau khi tai nạn đã lỡ xảy ra nên phía nạn nhân cũng không nghĩ đến việc thưa kiện.
Tuy nhiên, hỗ trợ vốn là cách xử sự mang tính chất tự nguyện, nặng về mặt tình cảm, đạo đức thì về nguyên tắc không thể xóa bỏ nghĩa vụ pháp lý bồi thường dân sự theo quy định của pháp luật. Song nhiều người đã ngầm hiểu nó thay thế nghĩa vụ bồi thường. Vấn đề có thể tạm chấp nhận được nhờ ở giá trị hỗ trợ cũng tương đối. Vì tổn thất tinh thần thì không biết bao nhiêu tiền là vừa và cách ứng xử của cơ quan gây thiệt hại thể hiện thái độ biết điều một cách kịp thời, không giải quyết sự đau thương theo kiểu “trả nợ quỷ thần”, coi như bỏ tiền ra là mọi chuyện xong xuôi.
Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành đã quy định một số tội danh dành cho hành vi thiếu trách nhiệm trong lĩnh vực hoạt động này. Chẳng hạn, đặt trái phép chướng ngại vật, dựng “lô cốt”, tạo lỗ đào sâu, hố ga, ổ voi, ổ gà... trên đường trong quá trình thi công tu bổ đường sá, hầm cống thì cá nhân có thể bị quy trách nhiệm về “tội cản trở giao thông đường bộ” (Điều 203 BLHS). Nếu sau khi công trình đã hoàn thành, nghiệm thu và bàn giao cho chủ đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước mà tai nạn xảy ra thì các cá nhân có thể chịu trách nhiệm pháp lý về “tội vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông” (Điều 220 BLHS). Còn nói chung, khi tai nạn xảy ra, các cơ quan tố tụng đều có thể xem xét trách nhiệm hình sự về “tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 285 BLHS), “tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính” (Điều 99 BLHS), “tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính” (Điều 109 BLHS)...
Nhưng có một trở ngại đang “bao che” cho toàn bộ hành vi phạm tội nói trên khiến từ lúc các tội phạm ấy được BLHS quy định cho đến nay, các cơ quan tố tụng gần như chưa hề truy cứu trách nhiệm hình sự được vụ nào. Lẽ cũng dễ hiểu: luật hình sự của ta không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân (tổ chức) mà chỉ cá nhân (con người cụ thể) chịu trách nhiệm. Nhưng phát hiện đích danh chính xác đó là cá nhân nào thì lại là chuyện cực kỳ khó, nếu không nói là không thể.
Nguyên nhân là trong quan hệ hành chính, khi phân công giao việc, các cơ quan quản lý thường không có sự phân chia trách nhiệm cụ thể, rõ ràng. Khi việc không hay xảy ra thì cơ quan này lại đổ cho cơ quan kia trong khi ngay trong một cơ quan cũng không thể truy ra được ai là người phải chịu trách nhiệm trực tiếp. Thấy tai nạn thì ai cũng bức xúc nhưng xác định người nào phải chịu trách nhiệm để xử lý hình sự thì không dễ; cùng lắm là trấn an dư luận bằng biện pháp xử lý kỷ luật nội bộ dưới hình thức khiển trách, cảnh cáo, chuyển công tác, cách chức... một vài người có liên quan để làm gương mà thôi!
Như vậy, khó khăn chủ yếu không phải bắt nguồn từ luật mà là do ở “lệ” đang bị thiếu. Những văn bản hợp đồng, điều lệ, quy chế, nội quy phân công, phân nhiệm trong từng lĩnh vực hành chính, từng khu vực hoạt động, giữa cơ quan, đơn vị cấp trên và cơ quan, đơn vị cấp dưới, giữa người đứng đầu, lãnh đạo và người cán bộ, nhân viên thừa hành đã không thể hiện trách nhiệm cụ thể, rõ ràng. Hầu như ai cũng có quyền, nghĩa vụ mà không xác định được trách nhiệm cụ thể thuộc về ai, chính ai phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có sự cố xảy ra. Tình trạng pháp luật kiểu như vậy thì khi có sự cố xảy ra, muốn đưa chủ tịch UBND cấp nào (tỉnh, huyện, xã) ra xử cũng được; mà gí nhân viên đi tuần (đường, cầu, cống, điện...) cũng được; và dung tha cho tất cả... cũng được.
Việc này sẽ còn tiếp tục dài dài, lâu ngày tạo ra cho cán bộ thái độ vô trách nhiệm, cho người dân một tâm lý bất an thường trực nếu tình trạng quản lý như nói trên không được quan tâm chấn chỉnh.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an nhân dân phản ánh: Báo CAND đã đăng bài phản ánh việc Đào Thị Hà (47 tuổi), ĐKHK tại 144 Cầu Giấy, phường Quan Hoa, với mục đích lừa đảo đã dùng sổ đỏ ngôi nhà của mình làm thủ tục công chứng bán cho 2 người ở 2 phòng công chứng khác nhau.
Trao đổi với phóng viên Báo CAND, ông Phạm Thanh Cao - Trưởng phòng Quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp Hà Nội cho biết, hiện trên địa bàn Hà Nội, các giao dịch về nhà đất được thực hiện tại 9 phòng công chứng, 42 văn phòng công chứng và UBND các xã nơi chưa có tổ chức hành nghề công chứng (bao gồm huyện Sóc Sơn và toàn bộ các huyện của Hà Tây cũ).
Từ vụ việc được đăng trên Báo CAND và đợt kiểm tra liên ngành về tình hình và tổ chức hoạt động của các văn phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội, hiện Sở Tư pháp Hà Nội đang xúc tiến việc xây dựng Trung tâm Dữ liệu, phục vụ việc tra cứu để đảm bảo hợp đồng, giao dịch không bị trùng lặp.
Ông Cao cũng khuyến cáo, trong thời gian Trung tâm Dữ liệu này chưa được thành lập, để phòng ngừa tội phạm lừa đảo, những người mua bất động sản cần hết sức thận trọng, có thể kiểm tra thông tin qua các tổ chức hành nghề công chứng nếu thấy nghi ngờ.
2. Báo Tiền phong có bài Sẽ hủy giấy khai sinh ban hành trái thẩm quyền. Bài báo phản ánh: Sau khi Tiền Phong có bài “Tranh cãi quanh hai giấy khai sinh”, Phòng Tư pháp Hoằng Hóa (Thanh Hóa) vừa tham mưu cho ngành chức năng ban hành quyết định hủy bỏ giấy đăng ký khai sinh trái quy định.
Theo kết quả xác minh của Phòng Tư pháp Hoằng Hóa: Vì có sự thay đổi độ tuổi (năm sinh) mà công dân Lê Xuân Hùng thay vì chỉ bị xử phạt hành chính (nếu dưới 14 tuổi) nhưng đã bị truy tố tội phạm hình sự (vì đã trên 14 tuổi). Phòng Tư pháp yêu cầu UBND xã Hoằng Trường tự khắc phục sai sót, ban hành quyết định hủy bỏ nội dung đăng ký khai sinh cho Lê Xuân Hùng (đăng ký năm 2009) không đúng quy định. Đồng thời, yêu cầu UBND xã kiểm tra động cơ, mục đích việc làm sai lệch năm sinh của công dân; kiểm điểm, xử lý Chủ tịch UBND xã và công chức tư pháp - hộ tịch xã.
Nhưng đến nay, UBND xã Hoằng Trường vẫn chưa ban hành quyết định hủy giấy đăng ký khai sinh trái quy định và cũng chưa gửi biên bản họp kỷ luật công chức tư pháp - hộ tịch và Chủ tịch UBND xã.
Phòng Tư pháp Hoằng Hóa cũng đã tham mưu cho Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa ban hành quyết định hủy bỏ nội dung đăng ký lại giấy khai sinh của Lê Xuân Hùng (năm 2009) và yêu cầu UBND xã Hoằng Trường phục hồi nội dung đăng ký khai sinh năm 2004 của Lê Xuân Hùng (SN 1995).
Được biết, đến ngày 10/9, Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa vẫn chưa ban hành văn bản trên. Dư luận hiện quan tâm tới việc, Lê Xuân Hùng đã được xác định là sinh năm 1995 thì bản án trước đó dành cho Hùng sẽ phải thay đổi thế nào, trách nhiệm của các cơ quan tố tụng huyện Hoằng Hóa đến đâu.
3. Báo Người lao động phản ánh: UBND TPHCM vừa ban hành kế hoạch triển khai thực hiện thí điểm thừa phát lại tại TPHCM. Theo đó, Sở Tư pháp sẽ công bố các điều kiện tiếp nhận hồ sơ đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động của các văn phòng thừa phát lại trước ngày 30 -9; tiếp nhận hồ sơ, thẩm định và trình Bộ Tư pháp xem xét việc bổ nhiệm trước ngày 31 - 10.
Đồng thời, Sở Tư pháp phải khảo sát nắm tình hình nhân sự làm công tác pháp luật có nguyện vọng làm thừa phát lại; vận động, giới thiệu nguồn tham dự lớp tập huấn về nghiệp vụ thừa phát lại để đề nghị bổ nhiệm và hoạt động trong lĩnh vực thừa phát lại. Dự kiến đến cuối năm 2009, TP sẽ cho phép thành lập 5 văn phòng thừa phát lại, nếu việc thí điểm thuận lợi sẽ thành lập thêm từ 1 đến 3 văn phòng khác.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thi hành án chần chờ. Bài báo phản ánh: Đã hơn ba năm trôi qua nhưng bà Lương Kim Dung (ngụ xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) vẫn chưa nhận được hơn 300 triệu đồng như nội dung đã tuyên của bản án phúc thẩm năm 2006.
Cụ thể, bản án của TAND tỉnh Đồng Nai xử buộc bà S. ở gần nhà bà Dung phải thanh toán cho bà Dung giá trị của gần 300 m2 đất tại xã Phước Thiền. Căn cứ vào đơn yêu cầu thi hành án của bà Dung, Thi hành án huyện Nhơn Trạch đã ra quyết định thi hành án. Theo kết quả xác minh của cơ quan này, bà S. không còn tài sản nào khác ngoài miếng đất đang sinh sống. Tháng 6-2008, Thi hành án huyện Nhơn Trạch đã kê biên đất này của bà S. để đảm bảo thi hành án. Nhưng đến nay, mọi việc vẫn còn giậm chân tại chỗ.
Bà Dung cho biết: “Tôi đồng ý hỗ trợ cho bà S. tiền di dời nhà. Đồng thời, tôi còn cho thêm bà ấy hơn 40 m2 đất để ở vì bà S. không còn chỗ ở nào khác. Nhưng bà ấy vẫn không chịu và khiếu nại nhiều nơi. Gần đây, tôi được biết HĐND huyện lại có công văn đề nghị tạm hoãn thi hành án. Vậy đến lúc nào tôi mới được thi hành án?”.
Được biết, vào năm 2006, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai đã có công văn đề nghị TAND tối cao và VKSND tối cao xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Tháng 7-2007, TAND tối cao đã có công văn trả lời bà S. là không có cơ sở để xem xét lại bản án. Thế nhưng vào tháng 6-2008, khi Thi hành án huyện chuẩn bị cưỡng chế thi hành án thì HĐND huyện lại có công văn đề nghị tạm hoãn thi hành án để chờ trả lời của TAND tối cao và VKSND tối cao.
Làm việc với phóng viên, ông Nguyễn Phước Tới, ủy viên thường trực HĐND huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, xác nhận: “Đúng là chúng tôi có làm công văn kiến nghị tạm hoãn thi hành án để cấp có thẩm quyền xem xét lại bản án. Nhưng đó chỉ là kiến nghị, cơ quan thi hành án hoàn toàn có quyền hoãn thi hành án hoặc không. Tại thời điểm này, khi chúng tôi không có ý kiến gì mới thì cơ quan thi hành án cứ thi hành án, chúng tôi không ngăn cản”.
Ông Trần Văn Dân, Trưởng thi hành án huyện Nhơn Trạch, lại cho biết: “Chúng tôi đã thỉnh thị ý kiến chỉ đạo của Thi hành án tỉnh về vụ này và được hướng dẫn phải gửi công văn đề nghị TAND tối cao và VKSND tối cao trả lời. Nhưng TAND tối cao chỉ có công văn trả lời cho riêng bà S. và VKSND tối cao thì cũng không gửi phản hồi. Đã vậy, sau khi gửi văn bản yêu cầu tạm hoãn thi hành án thì HĐND huyện cũng không có ý kiến gì thêm. Sẽ rất khó nếu chúng tôi cưỡng chế thi hành mà không nhận được sự đồng thuận của chính quyền và nhân dân địa phương. Mới đây, ban chỉ đạo thi hành án huyện đã yêu cầu chúng tôi tiếp tục gửi công văn đề nghị hai cơ quan tối cao phúc đáp công văn của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh để có cơ sở thi hành dứt điểm”.
5. Báo Lao động có bài Bình Dương: “luật sư” lừa chạy thi hành án. Bài báo phản ánh: Khoảng cuối năm 2006, khi đang bức xúc vì việc thi hành án quá lâu, ông Phạm Văn Tấn (trú tại P.Hiệp An, TX.Thủ Dầu Một) nhận được lời đề nghị "lo công việc" của một người tự xưng là Bùi Văn Tình - là luật sư.Sau đó, ông Tấn đã đưa 60 triệu đồng (có giấy nhận tiền) cho ông Tình. Ngay sau khi nhận tiền, kẻ tự xưng là luật sư đã lánh mặt.
Ông Tấn cho biết: Khoảng cuối năm 2006, biết ông đang yêu cầu thi hành án giao nhà đất theo bản án số 128/2006, ngày 24.5.2006 của TAND tỉnh tại Cơ quan Thi hành án thị xã Thủ Dầu Một, một người tự xưng là luật sư, tên là Bùi Văn Tình đã liên hệ với ông, nói có thể giúp đỡ nhanh chóng giao nhà đất cho ông; đồng thời đề nghị ông đưa 60 triệu đồng để "lo công việc" - chữ trong giấy nhận tiền.
Ông Tấn đã chấp nhận đưa cho ông Tình 60 triệu đồng. Sau khi viết giấy ký nhận tiền, ông Tình hứa trong thời gian 8 tháng, ông sẽ quan hệ tác động với cơ quan thi hành án, với chấp hành viên để cưỡng chế giao tài sản cho ông Tấn. "Hết thời hạn ông Tình hứa sẽ giao tài sản cho tôi, tôi liên hệ với ông Tình để hỏi, nhưng ông Tình đã tránh mặt" - ông Tấn bức xúc. Chúng tôi lần theo địa chỉ của ông Tình ghi trên giấy biên nhận (phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một).  Ông Trần Bá Phước - cảnh sát khu vực phường Chánh Nghĩa - cho biết: "Ông Tình thường trú tại phường và hiện đang tạm trú tại khu I".
Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương Nguyễn Hiệp Phùng cho biết: Ông Tình được công nhận luật sư vào khoảng cuối năm 2008 hoặc đầu năm 2009 (ông không nhớ chính xác vì hồ sơ do thư ký văn phòng giữ, nhưng hiện thư ký này đã nghỉ việc và vừa bàn giao lại cho thư ký mới) và hiện đang làm việc cho văn phòng luật sư của ông Phùng ở Tân Uyên.
Điều 3, điều 7, điều 16 và điều 25 Pháp lệnh Luật sư quy định: Một người muốn làm dịch vụ pháp lý phải là luật sư; luật sư phải theo một tổ chức hành nghề luật sư; luật sư đã được cấp chứng chỉ hành nghề và quá trình hoạt động phải ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng. Như vậy, vào thời điểm năm 2006, ông Tình chưa phải là luật sư. Do đó, hành vi của ông Tình có dấu hiệu của tội lừa đảo. Trao đổi thêm với PV, ông Tấn cho biết: Ông đã gửi đơn tố cáo lên Công an thị xã Thủ Dầu Một.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 14/9/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm