Điểm tin báo chí sáng ngày 17 tháng 6 năm 2009

17/06/2009
Trong buổi sáng ngày 17/6/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Liên quan đến vụ người dân đòi Vedan bồi thường thiệt hại, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Bùi Cách Tuyến vừa ký văn bản gởi UBND TPHCM, UBND tỉnh Đồng Nai và UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đề nghị lãnh đạo các địa phương trên chỉ đạo các cơ quan có liên quan căn cứ vào đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại của người dân, tổ chức kiểm tra, xác minh thực tế và tổng hợp các thiệt hại về kinh tế, môi trường… giúp người dân hoàn tất việc chứng minh thiệt hại trước ngày 10-7-2009.
Trong trường hợp không thỏa thuận được với Công ty Vedan về mức bồi thường hoặc hỗ trợ người dân bị thiệt hại, Tổng cục Môi trường sẽ phối hợp với các địa phương trên tổ chức điều tra, khảo sát và xây dựng “Báo cáo đánh giá tác động môi trường và thiệt hại về kinh tế, môi trường do hành vi gây ô nhiễm của Công ty Vedan và các doanh nghiệp trên lưu vực sông Thị Vải” để làm căn cứ đòi Vedan phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường và pháp luật liên quan.
Báo cũng phản ánh: Dù Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên mức lãi suất cơ bản đồng Việt Nam là 7%/năm nhưng hiện nay nhiều ngân hàng thương mại lại cho vay tiêu dùng cá nhân với lãi suất quá cao, có ngân hàng nâng lên 26% năm (bằng 371,4% so với lãi suất cơ bản); bên cạnh đó các điểm cầm đồ cũng nâng lãi suất cho vay lên 60% năm. Nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn về mặt tài chính tạm thời buộc phải vay tiền ngân hàng với lãi suất “cắt cổ”, chỉ thua tín dụng đen, tiệm cầm đồ chút ít.
Được biết, tháng 2-2009, Ngân hàng Nhà nước có quy định lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh không được quá 150% so với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Cụ thể, lãi suất cơ bản hiện nay là 7% thì lãi suất trần tối đa các tổ chức tín dụng được phép cho vay hiện nay là 10,5% (150% lãi suất cơ bản). Tuy nhiên, đối với cho vay tiêu dùng cá nhân, ngân hàng nhà nước lại thả nổi cho các ngân hàng thương mại tự thỏa thuận với khách hàng. Do vậy, lãi suất cho vay tiêu dùng cá nhân đã tăng một cách “phi mã” trong vài tháng qua.
Theo một số nhà phân tích kinh tế, nếu không có biên độ lãi suất trần cho các khoản vay tiêu dùng thì lãi suất này sẽ còn tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới và không loại trừ các ngân hàng “bắt tay nhau” đồng loạt nâng lãi suất gây thiệt hại cho người dân. Một điều nữa, phần lớn người đi vay là lao động nghèo không có tài sản thế chấp, gặp khó khăn tài chính gia đình, cần một khoản trang trải lúc ngặt nghèo. Vì vậy, việc thả nổi lãi suất cho vay tiêu dùng chẳng khác nào “đánh” vào người nghèo.
Vĩ mô hơn, hiện nay thế giới đang bị khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp trong nước đang quay lại khai thác thị trường nội địa. Việc thả nổi lãi suất cho vay tiêu dùng dẫn đến lãi suất tăng quá cao như hiện nay đang đi ngược với chủ trương kích cầu của Chính phủ. Điều người dân bức xúc hơn là hệ thống “tín dụng cầm đồ” rất gần gũi với dân nghèo hiện đang bị “quên” quản lý và hầu như cho đến nay vẫn chưa có cơ chế nào quản lý cho loại hình tín dụng này.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Trao đổi với báo chí ngày 16-6, ông Nguyễn Huy Trường, Trưởng ban Thuế thu nhập cá nhân (TNCN), Tổng cục Thuế cho biết, sau khi trình và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ Tài chính đã chỉ đạo Tổng cục Thuế có Công điện hỏa tốc số 38, gửi các cục thuế địa phương, về việc hướng dẫn thực hiện giãn thời hạn nộp thuế TNCN.
Công điện khẳng định tiếp tục thực hiện giãn nộp thuế TNCN đến hết ngày 30-6-2009 đối với đối tượng đã được giãn nộp thuế TNCN, theo hướng dẫn tại Thông tư số 27 của Bộ Tài chính. Cụ thể, các đối tượng được giãn nộp thuế TNCN bao gồm: cá nhân cư trú, có thu nhập chịu thuế từ kinh doanh, tiền công, tiền lương, đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn; thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại, thừa kế, quà tặng. Cá nhân không cư trú, có thu nhập từ đầu tư, chuyển nhượng vốn, nhượng quyền thương mại, bản quyền…
Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính trước đó, một số đối tượng có thu nhập được giãn thời hạn nộp thuế TNCN từ ngày 1-1-2009 đến 31-5-2009. Với quyết định mới của Bộ Tài chính, thời gian giãn thuế sẽ kéo dài đến hết tháng 6-2009.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang tin nhanh công nghệ thông tin có bài Ngành tư pháp chuyển sang văn bản điện tử. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp yêu cầu các đơn vị trong ngành sử dụng văn bản điện tử thay thế dần văn bản giấy. Ngày 10/6/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã ra chỉ thị (01/CT-BTP) về việc tăng cường ứng dụng CNTT trong ngành tư pháp giai đoạn 2009-2010. Theo chỉ thị này, các cơ quan, đơn vị trong ngành phải xây dựng và công bố danh mục các văn bản và tài liệu được trao đổi chính thức bằng hình thức văn bản điện tử, hạn chế dần và tiến tới không sử dụng hình thức văn bản giấy trong phạm vi các đơn vị thuộc Bộ.
Chỉ thị cũng yêu cầu các cơ quan trong ngành tăng cường sử dụng văn bản điện tử thay thế cho các văn bản giấy trong quản lý, chỉ đạo, điều hành; Từng bước chuyển sang làm việc dựa trên văn bản điện tử và môi trường mạng; Khai thác triệt để các ứng dụng của phần mềm quản lý văn bản và điều hành, hộp thư điện tử được cấp, các phần mềm chuyên ngành phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ; Sử dụng mạng Internet để khai thác thông tin phục vụ hoạt động chuyên môn.
Trong hoạt động cung cấp thông tin và dịch vụ công, chỉ thị yêu cầu các đơn vị trong ngành tư pháp cung cấp, cập nhật thông tin lên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, đặc biệt là các thông tin về văn bản quy phạm pháp luật, thủ tục hành chính, hướng dẫn nghiệp vụ, hỏi đáp pháp luật, dự án đầu tư, đấu thầu mua sắm công. Phấn đấu đến hết năm 2010, 100% các thông tin chỉ đạo, điều hành của ngành tư pháp được đưa lên Cổng thông tin điện tử của Bộ, các dịch vụ hành chính công trực tuyến đều được cung cấp ở mức độ 2 và 3.
2. Báo Lao động có bài Cty cổ phần dược phẩm Hà Nội: Hơn 2 năm vẫn không thi hành án lao động. Bài báo phản ánh: Tháng 3.2007, TAND quận Đống Đa (Hà Nội) đã xét xử vụ án tranh chấp lao động (LĐ) giữa bà Gosain Mally Girih (gọi tắt là Mally)- người Việt gốc Ấn Độ, là công nhân của Cty, có hộ khẩu thường trú tại ngõ Quan Thổ 1, phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội- với Cty CP dược phẩm Hà Nội. Toà đã tuyên án người lao động (NLĐ) thắng kiện và buộc Cty phải truy đóng BHXH và thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho bà Mally với tổng số tiền gần 8 triệu đồng. Nhưng suốt 2 năm qua, DN vẫn không thi hành án (phần truy đóng BHXH) khiến bà Mally khi hết tuổi LĐ phải ra về gần như với hai bàn tay trắng.
Từ tháng 2.1993, bà Mally được nhận vào làm công nhân (CN) vệ sinh công nghiệp tại XN dược phẩm Hà Nội (nay là Cty CP dược phẩm Hà Nội) và được ký HĐLĐ thử việc 3 tháng. Hết hạn HĐ thử việc 3 tháng, bà được ký tiếp các HĐLĐ 6 tháng, rồi 1 năm và cứ kéo dài như vậy đến năm 2001. Sau gần 9 năm bị DN vi phạm các quyền lợi hợp pháp, bà Mally đã làm đơn kiến nghị với lãnh đạo DN đề nghị được ký HĐLĐ dài hạn, điều chỉnh lại lương và được tham gia đóng BHXH... Mãi đến lúc này DN mới cho bà ký HĐLĐ dài hạn và đóng BHXH, nhưng bà đã 51 tuổi và chỉ được tham gia BHXH 4 năm nữa là hết tuổi LĐ của nữ (55 tuổi).
Vệ sinh công nghiệp là công việc ổn định, thường xuyên, lâu dài đối với bất cứ DN nào. Thế nhưng, DN vẫn cố tình vi phạm BLLĐ để buộc bà Mally phải ký HĐLĐ ngắn hạn theo chuỗi, hòng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với NLĐ. Điều đó khiến cả NLĐ và cơ quan BHXH phải chịu thiệt hại.
Đến tháng 3.2006, khi bà Mally đủ 55 tuổi, Cty CP dược phẩm Hà Nội cho nghỉ theo chế độ, nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH nên bà không được hưởng chế độ hưu trí, chỉ được giải quyết chế độ BHXH một lần cho 4 năm đóng BHXH (mỗi năm được chi trả 1 tháng lương).
Trong khi NLĐ đang loay hoay đi đòi quyền lợi của mình thì Cty CP dược phẩm Hà Nội đã "báo cáo và xin ý kiến" BHXH TP.Hà Nội để "biến" bà Mally - người Việt gốc Ấn, có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội - bỗng chốc trở thành người nước ngoài để đẩy bà vào chỗ không được hưởng các quyền lợi hợp pháp của NLĐ Việt Nam(!?). Vì vậy, NLĐ đã buộc phải khởi kiện DN ra toà.
Ngày 27.3.2007, TAND quận Đống Đa, TP.Hà Nội đã xét xử vụ án LĐ, khẳng định việc Cty đã vi phạm Luật LĐ và Điều lệ BHXH đối với trường hợp của bà Mally và tuyên án buộc DN phải khôi phục lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho NLĐ bằng việc truy đóng BHXH và trả trợ cấp thôi việc cho những năm làm việc thực tế của bà.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà Mally đã đòi được Cty CP dược phẩm Hà Nội bồi thường tiền trợ cấp thôi việc và khoản tiền nghỉ phép của NLĐ. Tuy nhiên đến khoản DN truy đóng BHXH (từ năm 1993 đến năm 2000) theo bản án để NLĐ được giải quyết đầy đủ chế độ BHXH thì lâm vào bế tắc. Ngày 23.7.2008, BHXH quận Đống Đa (Hà Nội) đã ra văn bản gửi Thi hành án quận Đống Đa và Cty CP dược phẩm Hà Nội, thông báo về khoản tiền BHXH phải truy thu với trường hợp trên. Cơ quan BHXH quận nêu rõ: Tiền truy thu đối với Cty là 7.290.000 đồng (bằng 15% tiền lương của NLĐ từ tháng 7.1993- 12.2000); tiền truy thu BHXH đối với NLĐ là 2.430.000 đồng (bằng 5% mức tiền lương).
Trước đó, ngày 8.4.2008, ông Nguyễn Công Đức - Trưởng Cơ quan thi hành án dân sự quận Đống Đa - đã ký quyết định thi hành án số 14LĐ/QĐ-THA buộc Cty CP dược phẩm Hà Nội phải đóng BHXH cho bà Mally. Nhưng điều kỳ lạ là cho đến nay, tưởng như với đầy đủ giấy tờ văn bản kể trên thì quyền lợi NLĐ sẽ được giải quyết, nào ngờ sự việc vẫn ... giậm chân tại chỗ!
Trong đơn khiếu nại gửi tới toà soạn Báo Lao Động, bà Mally viết: "... Tôi xuống toà hỏi thì toà bảo về Thi hành án quận Đống Đa. Tôi đến Thi hành án quận trình bày thì thi hành án cũng chỉ hứa. Tôi đã đi lại rất nhiều lần rồi, nhưng bản án LĐ của tôi đến nay vẫn không được giải quyết!". Không lẽ với một bản án LĐ toà đã tuyên hơn 2 năm, DN vẫn cố tình không thực hiện và quyền lợi NLĐ bị xâm phạm, mà các cơ quan có trách nhiệm lại làm ngơ.
3. Trang web Đài truyền hình Việt Nam có bài Xã hội hóa hoạt động công chứng: Nhiều vướng mắc. Bài báo phản ánh: Xã hội hóa hoạt động công chứng là 1 vấn đề mới và đòi hỏi cao. Bên cạnh các Phòng công chứng Nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội, là 39 văn phòng công chứng hoạt động theo loại hình công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Sau 6 tháng triển khai theo Luật Công chứng, bên cạnh những mặt tích cực, đã nảy sinh 1 số vấn đề cần được quan tâm giải quyết để các Văn phòng Công chứng phát huy hiệu quả hơn nữa.
Từ khi các văn phòng công chứng ra đời theo Luật Công chứng và sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách trên địa bàn thành phố Hà Nội, đã góp phần giảm tải rất nhiều cho các Phòng công chứng Nhà nước. Dư luận có cái nhìn thiện cảm hơn qua sự thay đổi tác phong, thái độ làm việc trong đội ngũ công chứng viên. Các văn phòng công chứng đều thực hiện tốt nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Sau hơn nửa năm chính thức triển khai hoạt động, bước đầu đã ghi nhận vai trò của các Văn phòng Công chứng trong việc góp phần cải cách tư pháp.
Ông Phạm Thanh Cao, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp - Sở Tư pháp HN cho biết: "Các văn phòng công chứng đã đóng góp rất nhiều trong việc xã hội hóa cũng như trong việc tạo thuận lợi cho người dân trong công tác giao dịch, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân".
Nhưng, vẫn nảy sinh một số bất cập như tình trạng lúng túng trong khi mở sổ sách theo dõi vụ việc, sổ sách tài chính. Có trường hợp 1 hợp đồng, nhưng lại 2 văn phòng công chứng ký xác nhận. Thậm chí, Văn phòng công chứng Đống Đa còn bị Sở Tư pháp Hà Nội tạm thời niêm phong hoạt động. Theo Luật sư Hoàng Đàm, Chủ đầu tư VPCC Đống Đa: "Bác Cáp Văn Chinh đã tự dừng hoạt động VPCC Đống Đa vào 3/4/2009; việc tự dừng của bác có 2 lý do bác cho rằng bác bị ốm và thứ 2 là có những mâu thuẫn với chủ đầu tư là tôi và cái việc tự dừng đó không được báo cáo Sở Tư pháp thành phố”.
Còn theo ông Cáp Văn Chinh, Trưởng VPCC Đống Đa: "Anh Hoàng Đàm cho rằng anh ấy là người góp vốn là có quyền điều hành tất cả mọi thứ của văn phòng, khi xảy ra xung đột anh ấy đóng cửa văn phòng, rồi giữ con dấu không cho chúng tôi hoạt động".
Đã xuất hiện mâu thuẫn về quyền lợi, trách nhiệm giữa nhà đầu tư vốn và người đứng đầu văn phòng công chứng. Vậy, nên có tối thiểu 1 hay 2 công chứng viên tại mỗi văn phòng công chứng, đang là câu hỏi đặt ra cho việc bổ nhiệm đối với ngành tư pháp?
Ông Phạm Thanh Cao cho rằng: "Nếu một văn phòng công chứng mà chỉ có 1 công chứng viên thì trong trường hợp Trưởng VP bị ốm nhiều ngày phải giải quyết như thế nào? Tôi nghĩ rằng nên khuyến khích họ hợp danh".
Đánh giá về hoạt động của các văn phòng công chứng thời gian qua, Sở Tư pháp Hà Nội kiến nghị xúc tiến thành lập Hiệp hội Công chứng viên toàn quốc, nhằm tăng cường quản lý xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công chứng viên, nâng cao nghiệp vụ để công chứng các giao dịch-hợp đồng đúng pháp luật. Theo Sở Tư pháp Hà Nội, ngày 4 tháng 7 năm 2009 sẽ thu hồi Giấy phép hoạt động của Văn phòng Công chứng Đống Đa theo Luật Công chứng. Một sự chấn chỉnh cần thiết và để bảo vệ uy tín đối với các Văn phòng công chứng còn non trẻ và khó khăn.
4. Báo Hà Nội mới có bài Cưỡng chế doanh nghiệp gây ô nhiễm: Thiếu cơ sở pháp lý. Bài báo phản ánh: Khi phát hiện hành vi gây ô nhiễm của doanh nghiệp (DN), cơ quan chức năng sẽ lập biên bản xử phạt hành chính và yêu cầu khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Nếu DN không chấp hành sẽ bị cưỡng chế kê biên tài sản hoặc cắt điện, nước, thu hồi giấy phép đầu tư, kinh doanh... Tuy nhiên, trên thực tế, buộc nộp phạt hành chính đã không… dễ, còn nếu cắt điện nước mà DN đi kiện thì… chưa chắc ai đã hơn ai.
Phát biểu tại hội thảo "Phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp, khu chế xuất" vừa được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, Đại tá Phan Hữu Vinh, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường nêu ra một thực tế đáng lo ngại là vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) rất phổ biến, nhưng số vụ bị phát hiện, xử phạt, khởi tố lại rất hạn chế. Ông Đào Anh Kiệt, Giám đốc Sở TN&MT TP thừa nhận, việc phát hiện và xử lý chẳng thấm tháp vào đâu so với thực trạng ô nhiễm trên địa bàn. Một trong những khó khăn là lực lượng thanh tra quá ít, chỉ có 11 người; vì vậy, trong năm 2008 Thanh tra Sở chỉ kiểm tra được 510 DN, phát hiện 184 DN vi phạm về môi trường và ra quyết định xử phạt gần 1,9 tỷ đồng.
Kiểm tra đã khó và khi phát hiện sai phạm, ra quyết định xử lý hành chính thì DN cũng thực hiện theo kiểu "giỡn chơi". Từ năm 2004 đến nay, Thanh tra Sở đã ban hành 1.091 quyết định phạt với tổng tiền phạt là 8,43 tỷ đồng nhưng các DN chỉ nộp được 5,24 tỷ đồng. Trên thực tế, mức phạt hành chính cao nhất 70 triệu đồng cho hành vi gây ô nhiễm môi trường là quá nhẹ để răn đe vi phạm. Tuy nhiên, ông Ngô Anh Tuấn, Phó ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN-KCX) TP Hồ Chí Minh (Hepza) cho rằng, dù có phạt DN hàng ngàn tỷ đồng cũng không khả thi. DN không đóng tiền cũng khó có thể cưỡng chế được, vì khi cưỡng chế cần rất nhiều lực lượng phối hợp như công an, y tế… Bên cạnh đó, tác nhân chính gây ô nhiễm trong ngành công nghiệp lại là máy móc thiết bị và quy trình sản xuất, nếu áp dụng các biện pháp kê biên hay buộc khắc phục ô nhiễm sẽ rườm rà về thủ tục cũng như không giải quyết dứt điểm việc gây ô nhiễm.
Ngắt điện, nước buộc cơ sở gây ô nhiễm phải khắc phục hậu quả hiện được cho là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, vừa không tốn kém, vừa đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật liên quan đến các biện pháp này cũng có nhiều vướng mắc. Ví dụ, Luật Điện lực không quy định sử dụng điện gây ô nhiễm môi trường sẽ bị ngắt điện. Sở Tư pháp cũng cho rằng, việc mua bán điện là giao dịch dân sự - kinh tế nên cần phụ thuộc vào nội dung hợp đồng mua bán giữa hai bên… Chính vì vậy, ông Kiệt cho rằng biện pháp này không ổn, bởi nếu DN bị ngắt điện đưa đơn kiện thì... chưa chắc ai đã thắng ai.
Luật về BVMT đã có, kể cả Bộ luật Hình sự cũng dành hẳn một chương với 10 tội danh về môi trường để điều chỉnh hành vi này. Thế nhưng, trên thực tế việc xác định đúng hành vi và thực hiệp các biện pháp xử lý không phải dễ. Đại tá Vinh ví dụ, Luật Hình sự quy định phải "gây hậu quả nghiêm trọng" mới khởi tố hình sự, trong khi đó lại chưa có văn bản hướng dẫn để xác định như thế nào là hành vi "gây hậu quả nghiêm trọng".
Chính vì luật chưa theo sát thực tế nên hàng ngàn DN đã vô tư xả thải ra môi trường. Ở khu vực TP Hồ Chí Minh, mỗi ngày hệ thống sông ngòi phải tiếp nhận hơn 1,7 tỷ mét khối chất thải công nghiệp, trong đó có khoảng 671 tấn cặn lơ lửng, 1.130 tấn BOD5, 1.789 tấn COD, 104 tấn ni tơ, 15 tấn phốt pho và kim loại nặng. Các nhà khoa học lo ngại, nếu không kiểm soát được các KCN-KCX ở đầu nguồn hệ thống sông Đồng Nai và sông Sài Gòn thì nguồn nước sinh hoạt của gần 10 triệu dân TP sẽ bị đe dọa trong thời gian gần. Hiện tại, những khu vực quanh các KCN Tân Phú Trung (huyện Củ Chi), Lê Minh Xuân (huyện Bình Chánh), kênh tiêu Ba Bò, rạch Suối Nhum, suối Cái (quận Thủ Đức, quận 9)… đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do nước thải công nghiệp. Các doanh nghiệp "đen", thủ phạm "bức tử" môi trường cũng đã được "điểm mặt chỉ tên" qua các đợt thanh tra của Sở TN&MT, tuy nhiên, sau khi đoàn thanh tra đi rồi thì gần như mọi việc lại… rơi về mốc cũ!
Trên đây là điểm báo sáng ngày 17/6/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm