Trong buổi sáng ngày 26/5/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Đến 17h ngày 25-5, theo thông tin cập nhật tại trang web chính thức http://www.new7wonders.com/ của tổ chức Newopenworld (NOW), vịnh Hạ Long đã vươn lên đứng thứ 1/25 danh thắng ở bảng G; đứng tiếp theo lần lượt là bãi biển Cox's Bazaar (Bangladesh), rạn san hô ngầm Great Barrier Reef ( Australia và Papua New Guinea).
Hiện Ban vận động bầu chọn cho vịnh Hạ Long đang tích cực triển khai tuyên truyền, quảng bá vẻ đẹp của di sản 2 lần được UNESCO công nhận này (vịnh Hạ Long đã được UNESCO 2 lần công nhận là di sản thiên nhiên thế giới về vẻ đẹp cảnh quan và địa chất, địa mạo) tới bạn bè trong và ngoài nước để kêu gọi bầu chọn. Đây cơ hội tốt để chúng ta giới thiệu với thế giới Việt Nam không chỉ nổi tiếng với những trang sử hào hùng, một Việt Nam rất thành công trong công cuộc đổi mới, mà Việt Nam còn là một đất nước có thiên nhiên kỳ vĩ với một nền văn hoá đa dạng.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Tin từ Bộ GTVT cho biết, bộ đã hoàn thành dự thảo nghị định quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, gồm 3 chương, 56 điều. Các điểm mới so với Nghị định 146/2007/NĐ-CP trước đây tập trung ở Chương 2 về hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức xử phạt. Trong đó, điểm mới đáng chú ý là từ 1-7-2009, lái xe chở người ngồi hàng ghế phía trước trong xe ô tô có trang bị dây an toàn mà không thắt dây an toàn khi xe đang chạy, sẽ bị xử phạt hành chính từ 100.000 - 200.000 đồng.
Ngoài ra, nghị định cũng tăng mức phạt tiền đối với một số nhóm hành vi vi phạm là nguyên nhân hoặc tiềm ẩn nguy cơ cao gây mất an toàn giao thông như: chạy quá tốc độ, chở quá số người quy định; sử dụng rượu, bia, chất ma túy; đi không đúng phần đường, làn đường; đi vào đường cấm, đường ngược chiều; vượt trong các trường hợp cấm vượt; khai thác, sử dụng trái phép đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ. Dự thảo nghị định này đang được gửi tới các cơ quan chức năng lấy ý kiến trước khi trình Chính phủ ban hành để kịp thực hiện đúng ngày 1-7-2009.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Hôm qua (25-5), Quốc hội đã thảo luận lần cuối cùng trước khi thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (BLHS).
Giải trình về dự luật này, báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề xuất bỏ hình phạt tử hình 8/17 tội danh trong luật hiện hành, trong đó có tội hiếp dâm (Điều 111). Như vậy, phạm tội hiếp dâm trong ba trường hợp: gây thương tật cho nạn nhân 61% trở lên; biết mình bị HIV mà vẫn phạm tội; hiếp dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát sẽ chỉ bị xử lý theo khung từ 12 năm tù đến chung thân.
Ủng hộ việc sửa đổi này, đại biểu Dương Ngọc Ngưu, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp, cho rằng giảm bớt hình phạt tử hình là xu hướng chung. Ở Việt Nam, dù đã giảm nhưng vẫn còn nhiều tội danh duy trì hình phạt tử hình nên ngay cả khi sửa luật vẫn phải có thêm giải pháp giảm áp dụng hình phạt tử hình trong thực tế. Với tội hiếp dâm, theo ông Ngưu, ba trường hợp phạm tội thuộc khung tăng nặng của Điều 111 BLHS cần được so sánh với các tội cố ý gây thương tích, cố ý gây thương tích dẫn tới hậu quả chết người, tội bức tử và tội cố ý lây truyền HIV cho người khác. Các hành vi phạm tội này cũng rất nguy hiểm, song đều không bị phạt đến mức tử hình. Mặt khác, kẻ hiếp dâm dù phạm trọng tội nhưng vẫn có thể cải tạo, giáo dục, không nhất thiết phải chấm dứt mạng sống của họ.
Tuy nhiên, nhiều đại biểu khác lại tỏ ra băn khoăn, nhất là các đại biểu nữ. Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cho rằng tội phạm hiếp dâm gây đau khổ dai dẳng về tinh thần cho nạn nhân, gia đình và cả dòng họ, phải phạt tử hình mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi. Còn đại biểu Đỗ Thị Lan (Quảng Ninh) dù đồng tình với việc bỏ tử hình với nhiều tội danh nhưng riêng tội hiếp dâm, bà cho rằng cần phải giữ vì: “Có thể thực tế áp dụng ít, hãn hữu mới tuyên tử hình nhưng vẫn phải duy trì để răn đe”.
Cũng nhằm mục đích giảm bớt hình phạt tử hình trong luật, báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn đề xuất chia nhỏ các tội danh về ma túy trong Điều 194 BLHS hiện hành, trong đó tội vận chuyển, tàng trữ ma túy được tách riêng. Với hành vi này, luật mới sẽ phân thành bốn khung hình phạt, nhẹ nhất là 2-7 năm tù, nặng nhất là từ 20 năm tù đến tù chung thân.
Nhiều đại biểu đồng tình với giải pháp này bởi trong tệ nạn ma túy, người vận chuyển, tàng trữ nhiều khi chỉ do ít học, bị nghiện ngập mà làm liều. Có những trường hợp họ bị đối tượng buôn bán ma túy lừa, lợi dụng dẫn tới phạm tội, nếu áp chung khung hình phạt tử hình như kẻ buôn bán là quá nặng. Tuy nhiên, vẫn có những ý kiến băn khoăn như đại biểu Huỳnh Nghĩa (Đà Nẵng) cho rằng buôn bán với vận chuyển, tàng trữ ma túy có quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu bỏ tử hình hoặc tách ra thành tội riêng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả đấu tranh với loại tội phạm này.
Trong các ý kiến, lập luận được đưa ra, phần trình bày của GS Trần Văn Độ, Chánh án Tòa án quân sự trung ương, rất thuyết phục. Theo ông, đã đến lúc cần xây dựng một đạo luật hình sự thực sự nhân văn, vì con người. Trong đó, hình phạt tử hình nên được coi là hình phạt đặc biệt, dành cho những trường hợp đặc biệt và cần bổ sung vào nguyên tắc của BLHS: “Hình phạt tử hình được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, không còn khả năng cải tạo, giáo dục để trở thành người có ích cho xã hội”. Với quan điểm đó, ông Độ không chỉ tán thành bỏ tử hình ở tám tội danh như Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình mà còn đề nghị thêm bốn nhóm tội: sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thuốc chữa bệnh; tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng an ninh quốc gia; tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; và nhóm tội tham ô, nhận hối lộ. Được biết, các ý kiến trên sẽ được tổng hợp để Quốc hội quyết định thông qua ở cuối kỳ họp này.
Báo cũng có bài “Thừa phát lại được tống đạt cả các văn bản hành chính”. Bài báo phản ánh: Bà Ung Thị Xuân Hương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết sở này vừa soạn xong dự thảo văn bản góp ý dự thảo nghị định hướng dẫn thực hiện đề án thí điểm mô hình thừa phát lại tại TP.HCM, trình UBND TP.HCM.
Theo dự thảo nghị định, việc tống đạt các văn bản của tòa án và cơ quan thi hành án dân sự sẽ do thừa phát lại đảm nhận. Tuy nhiên, trên thực tế các hoạt động hành chính cũng có nhiều loại văn bản, giấy tờ của cơ quan nhà nước cần tống đạt đến người dân. Ví dụ như các văn bản trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, các văn bản liên quan đến việc xử phạt hành chính cần chuyển đến người dân trong thời hạn nhất định. Do đó, nên giao cho thừa phát lại tống đạt cả các loại văn bản này. Mặt khác, theo Sở Tư pháp TP.HCM, trong giai đoạn thí điểm, việc tống đạt nhất định phải do chính thừa phát lại thực hiện. Các thư ký nghiệp vụ của văn phòng thừa phát lại có thể giúp thực hiện việc tống đạt nhưng chịu trách nhiệm về việc này phải là thừa phát lại.
Dự thảo nghị định cho rằng thừa phát lại chỉ có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi xảy ra tại TP.HCM cũng chưa hợp lý. Trên thực tế, có nhiều sự kiện, hành vi xảy ra ngoài TP.HCM nhưng liên quan đến các giao dịch hoặc phục vụ cho việc xét xử tại TP.HCM. Vì vậy, nghị định nên mở rộng địa hạt lập vi bằng của thừa phát lại ra cả các tỉnh khác nếu liên quan đến các giao dịch hoặc phục vụ việc xét xử tại TP.HCM.
Theo dự thảo nghị định, thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với tất cả sự kiện, hành vi. Tuy nhiên, do đây là một hoạt động mới nên quy định về việc lập vi bằng cần thật cụ thể. Ví dụ: Quy định cụ thể các trường hợp bị coi là ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, đời tư... Sở Tư pháp TP.HCM đề xuất trong thời gian thí điểm cần cân nhắc giới hạn các loại việc có thể lập vi bằng. Ví dụ chỉ lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, giao dịch và các sự kiện, hành vi vi phạm quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, cần bổ sung quy định về xử phạt hành chính trong hoạt động thừa phát lại vào dự thảo nghị định.
Báo cũng phản ánh: Dự thảo nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch đã được Bộ Tư pháp đưa lên website www.moj.gov.vn để lấy ý kiến nhân dân. Hôm nay (25-5), hội đồng thẩm định họp cho ý kiến về dự thảo này. Một nội dung đáng chú ý là dự thảo quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm đăng tải trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, đồng thời thông báo cho Bộ Ngoại giao, UBND tỉnh, TP trực thuộc trung ương kết quả giải quyết các việc về quốc tịch.
Theo dự thảo, người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày 1-7-2009, có nguyện vọng xin nhập quốc tịch Việt Nam thì làm đơn xin nhập quốc tịch và bản khai lý lịch theo mẫu. Thời hạn giải quyết việc nhập quốc tịch Việt Nam đối với những trường hợp này kéo dài đến hết ngày 31-12-2012. Dự thảo quy định, các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh phối hợp với UBND cấp huyện, xã tổ chức việc rà soát, lập danh sách, hỗ trợ làm hồ sơ, xác minh về nhân thân đối với những người không quốc tịch cư trú tại địa phương có nguyện vọng xin nhập quốc tịch Việt Nam. Căn cứ vào hồ sơ và danh sách do UBND cấp tỉnh đề xuất, bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng ký tờ trình trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
Dự thảo cũng quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch nước ngoài, đồng thời chưa mất quốc tịch Việt Nam, trước ngày 1-7-2009 mà không có hộ chiếu Việt Nam còn giá trị sử dụng, nếu có nguyện vọng giữ quốc tịch Việt Nam thì đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nơi có người Việt Nam định cư... Trường hợp người đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam không có đủ giấy tờ chứng minh có quốc tịch Việt Nam thì cơ quan đăng ký phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xác minh theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an. Kết quả xác minh cũng được ghi vào sổ đăng ký giữ quốc tịch.
Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài nếu có quốc tịch nước ngoài sau ngày 1-7-2009 thì trong thời hạn hai năm kể từ ngày có quốc tịch nước ngoài có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài biết, nếu không thông báo thì cơ quan đại diện Việt Nam sẽ không thực hiện việc đăng ký công dân cho người đó.
2. Báo Dân trí điện tử có bài “Hà Nội: Phường “thiếu chính xác”, dân mất biệt thự tiền tỷ”. Bài báo phản ánh: Từ giấy chứng thực giả do ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó Chủ tịch UBND phường Trung Tự, quận Đống Đa xác nhận, một đại tá quân đội đã bị vợ chiếm đoạt ngôi biệt thự trị giá hàng chục tỷ đồng là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Trong đơn tố cáo gửi Báo Dân trí, đại tá Phan Quốc Thắng hiện là Giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự cho biết: ông Thắng và vợ là bà Nguyễn Thị Bích Thuỷ đã làm đơn ly hôn ra tòa từ đầu năm 2006. Tuy nhiên trong thời gian tòa án giải quyết ly hôn, bà Thuỷ đã giả mạo chữ ký của chồng rồi cùng cán bộ có thẩm quyền tạo giấy tờ giả, bán tẩu tán nhiều tài sản có giá trị lớn và chiếm đoạt toàn bộ số tiền bán được.
Cụ thể, biệt thự 5C4, khu đô thị Nam Thăng Long (Ciputra), rộng 198m2 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Thắng và bà Thuỷ. Tuy nhiên ngày 26/7/2007, bà Thuỷ đã làm giả “Giấy cam đoan” xác nhận biệt thự trên là tài sản riêng của mình, giả chữ ký của ông Phan Quốc Thắng, rồi xin chứng thực chữ ký giả mạo tại UBND phường Trung Tự. Thực tế, ông Phan Quốc Thắng không làm giấy xác nhận tài sản trên cho bà Thuỷ, đồng thời ngày 26/7/2007, ông Thắng cũng không hề đến UBND phường Trung Tự vì phải thực hiện nhiệm vụ của Học viện Kỹ thuật Quân sự.
Vậy mà, bất chấp sự thật như trên, ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó Chủ tịch UBND phường Trung Tự đã xác nhận vào “Giấy cam đoan” giả mạo trên là: “Chứng thực ông Phan Quốc Thắng đã ký trước mặt tôi (ông Phương - PV) tại UBND phường Trung Tự ngày 26/7/2007”. Sau khi có “Giấy Cam đoan” giả trên, bà Thủy đã tiến hành làm “sổ đỏ” căn biệt thự 5C4, khu đô thị Ciputra và đã được UBND quận Tây Hồ cấp GCNQSDĐ vào ngày 9/8/2007. Sau đó, bà Thủy đã chuyển nhượng căn biệt thự trên với giá 4,1 tỷ đồng (theo tìm hiểu giá thị trường có thể gấp 4 lần giá ghi trong hợp đồng - PV) mà ông Phan Quốc Thắng không hề hay biết.
Trước việc làm trái pháp luật trên của ông Nguyễn Ngọc Phương, ông Thắng đã có đơn tố cáo gửi đến nhiều cơ quan chức năng. Ngày 30/12/2008, UBND phường Trung Tự đã có Công văn số 76 CV/UB phúc đáp ông Thắng thừa nhận: “Ngày 26/7/2007, ông Phan Quốc Thắng không đến UBND phường xác nhận chữ ký. Việc xác nhận chữ ký của công dân mang tên Phan Quốc Thắng, số chứng thực 04, quyển 01, ngày 26/7/2007 của UBND phường Trung Tự là thiếu chính xác. UBND phường Trung Tự đề nghị cơ quan chức năng huỷ xác nhận chứng thực này”.
Ngày 23/5/2009, trao đổi với PV Dân trí, ông Phan Quốc Thắng cho biết, sau sự việc trên, để âm mưu lừa đảo với bà Thuỷ được trót lọt, ông Nguyễn Ngọc Phương đã tìm cách huỷ giấy cam đoan gốc giả chữ ký của ông Thắng. Để tòa án có cơ sở bảo vệ quyền lợi cho mình tại căn biệt thự trên, nhiều lần ông Thắng có văn bản đề nghị ông Phương có văn bản chính thức gửi đến tòa đề nghị hủy Bản chứng thực chữ ký sai trái mà ông Phương đã làm, nhưng rốt cuộc ông Phương vẫn cố tình không chịu gửi. Chưa hết qua băng ghi âm cuộc trao đổi giữa ông Phương và một luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thắng cho thấy, ông Phương “thương lượng” việc làm trái của mình bằng việc bỏ ra 500 triệu đồng để “khắc phục hậu quả”.
Tuy nhiên, điều mà ông Thắng mong muốn ở đây không phải là việc bồi thường thiệt hại của UBND phường Trung Tự, mà việc các cơ quan chức năng sẽ xử lý sai phạm của ông Phương đến đâu? Tiếp nữa vì sao đến nay UBND phường Trung Tự vẫn chậm trễ trong việc ra văn bản chính thức gửi đến toà án để huỷ bản chứng thực chữ ký sai trái mà ông Phương đã làm. Hiện ông Thắng và vợ vẫn chưa thể ly hôn vì liên quan tới khối tài sản này.
3. Báo Thanh niên có bài Mơ hồ vấn đề pháp lý của tập đoàn kinh tế. Bài báo phản ánh: Đó là vấn đề nổi bật tại cuộc hội thảo về tập đoàn kinh tế nhà nước tổ chức hôm qua 25.5 ở Hà Nội.
Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, các tập đoàn kinh tế (TĐKT) nhà nước cho đến nay vẫn hoạt động thiếu một khung pháp lý cụ thể về quyền hạn của chủ sở hữu, trách nhiệm giải trình của các TĐKT đối với chủ sở hữu vốn nhà nước... Đây là điều rất không bình thường và sơ hở nghiêm trọng. Ông Doanh dẫn chứng: Luật Doanh nghiệp 2005 quy định tại điều 149: "TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT". Tuy nhiên, đến 12.8.2008 mới có dự thảo Nghị định về quản lý TĐKT nhà nước và cho đến nay (tháng 5.2009), vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào về vấn đề này được ban hành. Vậy trong suốt thời gian qua, hàng trăm ngàn tỉ đồng tiền vốn thuộc sở hữu nhà nước được quản lý theo khung pháp lý nào, trách nhiệm cá nhân của thành viên Hội đồng Quản trị quản lý vốn thuộc sở hữu nhà nước được quy định ở đâu?
Ông Trần Xuân Lịch, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư đặt vấn đề: Nếu không ban hành quy định pháp luật về TĐKT thì những vướng mắc của các tập đoàn hiện nay được giải quyết theo căn cứ nào? Đặc biệt là các vấn đề như tiêu chí, điều kiện hình thành TĐKT; địa vị pháp lý, tên gọi và cơ cấu của các TĐKT; kiểm soát độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường của các tập đoàn; vấn đề đầu tư trong TĐKT (đầu tư ngược, chéo).
Trong khi đó theo tiến sĩ Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Quốc hội: sự đổi mới về chính sách và cơ chế quản lý để các tổng công ty nhà nước có điều kiện vận động và phát triển thành TĐKT nhà nước, tức là Nhà nước đóng vai trò "bà đỡ", chứ Nhà nước không thể thay thế thị trường để sản sinh ra các tập đoàn bằng các quyết định hành chính. Không ai thành lập được tập đoàn. Chỉ có thể thành lập một doanh nghiệp (hình thành một pháp nhân), chứ không thể thành lập một nhóm doanh nghiệp tức tập đoàn (với nhiều pháp nhân), nên không thể có pháp nhân của tập đoàn (hiểu khái niệm pháp nhân theo luật dân sự). Đại diện cho các tập đoàn nhà nước, ông Đoàn Văn Kiển - Chủ tịch Tập đoàn Than - Khoáng sản (TKV) cho rằng: "Chúng tôi đồng ý là phải có một khung pháp lý rõ ràng đối với TĐKT nhà nước. Cần phân biệt quản lý làm hai luồng, quản lý Nhà nước và quản lý chủ sở hữu. Nếu không sẽ rất lúng túng".
Nhiều đại biểu tham dự hội thảo cũng nhất trí cần sớm tổ chức tổng kết một cách khoa học, khách quan mô hình "thí điểm" các tập đoàn và đưa ra các kiến nghị cần thiết để có thể sớm xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đối với các tập đoàn vì lợi ích của đất nước.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 26/5/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.