Điểm tin báo chí sáng ngày 22 tháng 5 năm 2009

22/05/2009
Trong buổi sáng ngày 22/5/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Thanh niên phản ánh: Bộ Công an - Bộ Ngoại giao vừa ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn một số quy định mới về thủ tục giải quyết cho công dân VN định cư ở nước ngoài (gọi tắt là Việt kiều) đăng ký thường trú tại VN. Theo quy định, có 3 đối tượng Việt kiều được đăng ký thường trú tại VN. Đó là: người mang hộ chiếu hoặc giấy tờ thay hộ chiếu do nước ngoài cấp còn giá trị; người không có hộ chiếu nước ngoài, nhưng có giấy tờ thường trú do nước ngoài cấp và người có hộ chiếu VN còn giá trị sử dụng.
Hồ sơ nộp tại Cơ quan đại diện VN - nếu nộp ở nước ngoài; ở trong nước nộp tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Bộ Công an) hoặc công an tỉnh, thành nơi đề nghị được về thường trú.Việt kiều phải có một trong những giấy tờ chứng minh có nhà ở hợp pháp tại VN: Bản sao giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu hoặc bản sao giấy tờ chứng minh có nhà ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân.
Nếu Việt kiều xin về thường trú tại TP trực thuộc T.Ư phải có thêm giấy tờ chứng minh đủ điều kiện đăng ký thường trú tại TP đó. Trường hợp Việt kiều được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu thì phải có giấy tờ chứng minh mối quan hệ ruột thịt giữa 2 người. Nếu không còn giấy tờ chứng minh, thì người bảo lãnh phải có đơn giải trình và được chính quyền địa phương xác nhận.
Đối với Việt kiều đề nghị về đăng ký thường trú tại cơ sở tôn giáo ở VN và hoạt động tôn giáo, thì phải được sự đồng ý của người đứng đầu cơ sở tôn giáo đó, kèm theo giấy tờ chứng minh theo quy định và được cơ quan có thẩm quyền của VN về tôn giáo chấp thuận.
2. Trang web Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: Theo tổng hợp của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII nhận được gần2.500 kiến nghị của cử tri cả nước tập trung vào 6 nhóm nội dung chính. Trong đó, vấn đề lao động, việc làm và đời sống nhân dân, giáo dục đào tạo được đông đảo đại biểu quan tâm.
Những ngày này, theo dõi kỳ họp đang diễn ra tại Hà Nội, nhiều cử tri vẫn tiếp tục gửi ý kiến đến Đài Tiếng nói Việt Nam. Cử triY Siu Buôn Giá (phường Tân Tiến, Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc)quan tâm đến vấn đề xoá đói giảm nghèo và mong muốn tại kỳ họp lần này, Quốc hội sẽ bàn và đề ra các giải pháp cụ thể hơn trong việc giúp đồng bào dân tộc thiểu số xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Ông Y Siu Buôn Giá kiến nghị: “Trong công tác xoá đói giảm nghèo, cử tri Đắc Lắc mong muốn Chính phủ tạo điều kiện để nâng cao sự hiểu biết bằng các chương trình cụ thể về chuyển đổi cơ cấu cây trồng hay dạy cách chăn nuôi cụ thể hơn. Vì nếu nói chung chung thì người ta tiếp thu chậm, từ chỗ tiếp thu chậm, người ta không sử dụng nguồn vốn hiệu quả”.
Tại thành phố Đà Nẵng, nhiều cử tri bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình về Đề án tăng học phí mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra. Cử tri Nguyễn Quỳnh Nguyệt ở phường Hải Châu 1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng nêu ý kiến: “Nhà nước cần xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định tăng học phí cho bậc đại học. Bởi đời sống người dân ở thành phố, người lao động kiếm đồng tiền rất khó khăn, gia đình cán bộ, hưu trí chỉ sống bằng đồng lương, chưa kể người dân ở vùng sâu, vùng xa còn khó khăn hơn nhiều”.
Về việc miễn giảm các khoản thuế, cử tri Đà Nẵng cho rằng, còn khá nhiều bất hợp lý, cụ thể là thuế nhà đất. Ông Phan Ngọc Mẫn, cử tri phường Thanh Bình, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bày tỏ: “Chính sách của Nhà nước khá công bằng, nhưng chưa được hoàn chỉnh. Cụ thể như việc nộp thuế nhà đất, thương binh loại 1, loại 2 được miễn 100%, nhưng loại 3, loại 4 phải nộp 100%. Nhà nước nên xem xét làm thế nào có thể điều chỉnh giống như việc miễn học phí cho con gia đình chính sách, đó là miễn 50% thuế nhà đất cho gia đình thương binh loại 3, loại 4”.
Một nội dung cũng được cử tri cả nước quan tâm đó là vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Cử tri ở tỉnh Đắc Nông rất mong chờ Quốc hội sẽ có những quyết sách đúng đắn về vấn đề này. Bên cạnh việc đảm bảo môi trường, việc khai thác bauxite phải thực sự đem lại lợi ích cho dân, nhất là cộng đồng dân tộc thiểu số tại chỗ.
Cử tri Điểu Nơi, dân tộc M’nông, nguyên là giáo viên, ở xã Đắc R’Tích, huyện Tuy Đức nói: “Là người dân, chúng tôi đồng tình với chủ trương chung của Nhà nước, tuy nhiên kiến nghị khi tiến hành khai thác xong phải có kế hoạch cải tạo lại đất đai, trồng cây, bởi nếu khu vực khai thác đúng vào đất đai của đồng bào, nếu không làm tốt sẽ sinh ra điểm nóng, sau này khó giải quyết. Việc xây dựng nhà máy tại địa phương thì theo yêu cầu của bà con là phải giải quyết việc làm ngay tại địa phương, làm sao đào tạo người dân tộc vào làm công nhân khai thác bauxite”.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Chậm chuyển khoản tiền thi hành án". Bài báo phản ánh: Theo bản án phúc thẩm năm 2008 của TAND TP.HCM, vợ chồng bà N. (quận 10, TP.HCM) phải trả cho bà H. gần 1,5 tỷ đồng. Ngoài ra, bà N. còn phải trả riêng cho bà H. 50 triệu đồng. Sau khi nhận đủ tiền, bà H. sẽ đưa lại cho vợ chồng bà N. giấy đỏ thửa đất tại Đồng Nai mà bà đang cất giữ.
Tháng 9-2008, Thi hành án dân sự quận 10 ra quyết định thi hành án. Đến quá hạn quy định nhưng vợ chồng bà N. chỉ trả được một phần tiền, còn thiếu 574 triệu đồng. Qua xác minh, Thi hành án dân sự quận 10 biết được tháng 4-2009, vợ chồng bà N. sẽ được nhận hơn một tỷ đồng tiền bồi thường đất tại phường An Lợi Đông (quận 2). Phía bà N. cũng đồng ý sẽ tiếp tục thi hành án ngay sau khi nhận được tiền bồi thường. Kẹt nỗi khi đến hạn nhận khoản tiền này thì bà N. lại không được ngân hàng thanh toán. Theo Ban bồi thường giải phóng mặt bằng (BTGPMB) quận 2, do có đơn ngăn chặn của người đã hùn vốn làm ăn với bà N. nên đơn vị này phải tạm ngưng việc chi trả tiền. Ban BTGPMB quận hứa sẽ xem xét đơn ngăn chặn trên, nếu thấy không có căn cứ thì sẽ tiếp tục chi trả cho bà N. Nhưng sau một thời gian chờ đợi, bà N. vẫn không thấy đơn vị này chi trả tiền.
Thi hành án dân sự quận 10 đã làm việc với Ban BTGPMB quận 2. Ngày 23-4, Thi hành án dân sự quận 10 đã ra quyết định trừ vào tiền của vợ chồng bà N. đang do người thứ ba nắm giữ. Theo đó, Ban BTGPMB quận 2 có trách nhiệm khấu trừ 574 triệu đồng của bà N. trong số tiền bồi thường và chuyển vào tài khoản của Thi hành án dân sự quận 10.
Cứ tưởng vậy là xong nhưng các bên đợi mãi vẫn không thấy có việc chuyển tiền. Ngày 27-4, tại buổi làm việc với Ban BTGPMB quận 2, Thi hành án dân sự quận 10 tiếp tục yêu cầu đơn vị này khấu trừ tiền bồi thường. Song đến nay, mọi thứ vẫn án binh bất động.
Ông Nguyễn Văn Hòa, Phó Trưởng Thi hành án dân sự quận 10, nói: “Chúng tôi đã năm lần làm việc với Ban BTGPMB quận 2 về việc thi hành án của bà N. Họ yêu cầu cung cấp giấy tờ gì thì chúng tôi đều đáp ứng nhưng họ cứ liên tục lỗi hẹn. Gần đây nhất, Ban cho biết nếu người gửi đơn ngăn chặn không trình được biên lai thu tiền tạm ứng án phí của tòa án có thẩm quyền thì ban sẽ chuyển tiền nhưng không rõ vì sao đến nay vẫn chưa có kết quả. Có thể tới đây, chúng tôi sẽ gửi công văn yêu cầu UBND quận 2 xử lý”.
Chiều 19-5, trao đổi với phóng viên, ông Trần Hoàng Tân, Trưởng phòng Tổ chức hành chính quản trị (UBND quận 2), cho biết: “Bà N. có tên trong danh sách nhận tiền bồi thường vào ngày 22-5. Cũng trong ngày này, Ban sẽ chuyển số tiền cần thiết vào tài khoản của Thi hành án dân sự quận 10”.
Luật sư Trần Chính Nghĩa (Đoàn luật sư TP.HCM) góp ý: “Trong trường hợp cụ thể của bà N., Ban BTGPMB quận 2 đã ách tiền bồi thường không đúng thẩm quyền. Tính từ khi có quyết định khấu trừ đến lúc chuyển tiền xong, Ban phải chịu trách nhiệm chi trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi phát sinh”.
Báo cũng có bài TP.HCM: Nữ luật gia lừa tiền tỷ. Bài báo phản ánh: Ngày 15-5, cơ quan điều tra của Bộ Công an đã ra quyết định gia hạn tạm giam bốn tháng đối với bị can Trần Thị Ngọc Nga để điều tra mở rộng vụ án. Trước đó, chiều 15-1, luật gia Nga (thuộc Hội luật gia TP.HCM) bị bắt quả tang đang nhận hai triệu yen của hai thân chủ người Nhật tại một quán cà phê trên đường Mạc Đĩnh Chi (quận 1, TP.HCM). Ngay sau đó, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội phía Nam (C14B) đã khởi tố, bắt tạm giam bà Nga về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Sau khi hay tin nữ luật gia này bị bắt, hai nạn nhân người Nhật tên là ME và TI đã gửi đơn đến C14B tố cáo trước đó bà Nga dùng nhiều thủ đoạn và câu kết với nhiều người để lừa lấy hơn 15 tỷ đồng của mình. Theo đơn tố cáo cùng chứng cứ kèm theo cho thấy bà Nga luôn miệng khoe có chồng là đại tá đang công tác tại Công an TP.HCM. Để tạo lòng tin, bà Nga đưa ông E. và ông I. đến gặp chồng bà tại một quán cà phê sát trụ sở Công an TP.HCM. Bà Nga còn nói có quen biết nhiều cán bộ ở Bộ Công an có khả năng giúp truy bắt con nợ của ông I. và ông E. để đòi tiền. Từ đó, bà Nga tạo được lòng tin với hai thân chủ người Nhật nhằm moi tiền của họ.
Trong vụ thay mặt ông I. đòi nợ Phan Công Danh (đang ẩn trốn tại Campuchia), biết Danh có hộ khẩu tại An Giang, bà Nga liền “vẽ” ra 298 triệu đồng tiền án phí và 318 triệu đồng tiền khởi kiện ra TAND tỉnh An Giang để moi tiền ông I. Nữ luật gia này còn yêu cầu đưa 500 triệu đồng gọi là chi phí tố cáo Danh ra công an. Khi bắt bà Nga, trinh sát thu giữ tờ biên nhận với nội dung “Tôi Trần Thị Ngọc Nga, địa chỉ 59 Nguyễn Thái Sơn, phường 4, quận Gò Vấp có nhận 50 ngàn USD (năm mươi ngàn) để giao cho Cảnh sát Campuchia di lý Phan Công Danh về VN phục vụ cho việc lừa đảo tại C14 mà ông E. và I. là nguyên đơn”. Trước khi nhận hai triệu yen của hai người Nhật, nữ luật gia này còn “nổ” rằng mình đang công tác ở Tổng cục Tình báo quân đội, đồng thời đưa thư mời của Tổng cục ra khoe với thân chủ (!).
Ông E. còn bị luật gia Nga “cho ăn bánh vẽ” trong vụ mua hai căn hộ chung cư ở quận 7. Nghe nói chung cư cao cấp bán giá rẻ, sau gần một năm chuyển vào tài khoản của bà Nga bốn tỷ đồng nhưng ông E. chỉ nhận được hai bộ hồ sơ bằng giấy. Chưa hết, bà Nga bảo ông E. phải nộp 6.000 USD để nhận nhà vào cuối tháng 1-2009 nhưng tiền đã trao mà nhà vẫn không thấy đâu.
Mặt khác, biết T.T.N.T là con nợ của ông E. nhưng không có khả năng chi trả, bà Nga yêu cầu ông E. chuyển khoản cho mình 50.000 USD với lý do để đi định giá đất của T. ở Long An. Biết T. có mua đất ở nhiều nơi với tổng số tiền đến 32 tỷ đồng, bà Nga giả vờ xem chứng từ rồi bảo rằng phải phong tỏa tài sản ngay. Nghe vậy, ông E. đã nộp cho bà ta hơn một tỷ đồng để phong tỏa tài sản của con nợ. Lợi dụng ông E. không rành luật Việt Nam, bà Nga bày cho ông E. đi mua cổ phiếu, sau đó bày chiêu sang tên để ẵm gọn 700 triệu đồng gọi là tiền sang tên. Mãi sau này qua tìm hiểu, ông E. mới biết việc sang tên cổ phiếu không hề mất tiền.
Trong quá trình điều tra nữ luật gia lừa đảo trên, điều tra viên đã phăng ra hàng chục phi vụ lừa tiền tỷ mà bà “đạo diễn”.
Báo cũng có bài Thảo luận Luật bồi thường nhà nước: Nhà nước phải sòng phẳng với dân. Bài báo phản ánh: Quốc hội đã dành cả buổi chiều qua (21-5) để thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật bồi thường nhà nước. Theo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), tên gọi của luật được sửa thành “Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước”.
Dự luật quy định trách nhiệm bồi thường của nhà nước cho người bị thiệt hại do người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, thi hành án và tố tụng. Đáng chú ý, hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, theo quy định tại dự luật, gồm cả hành vi không thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng theo quy định của pháp luật. “Việc quy định trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong trường hợp cán bộ, công chức không hành động mà gây thiệt hại tuy có mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước nhưng nếu không quy định sẽ không thể hiện đầy đủ trách nhiệm của nhà nước đối với công dân, làm cho cán bộ, công chức thiếu tích cực trong thi hành công vụ, thậm chí có thể không thực hiện” - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận nói.
Tuy nhiên, để phù hợp với thực tế và bảo đảm tính khả thi, UBTVQH đề nghị chỉ quy định một số trường hợp cụ thể người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn gây thiệt hại phải bồi thường. Cụ thể, trong quản lý hành chính là các hành vi: không cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện. Trong thi hành án dân sự là các hành vi không ra các quyết định về thi hành án như quyết định thi hành án, cưỡng chế thi hành án, hoãn thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án... và không tổ chức thi hành các quyết định này. Trong thi hành án hình sự là hành vi không thực hiện quyết định hoãn thi hành án đối với người bị kết án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù.
“Qua phản ánh của cử tri, tôi thấy hành vi thụ động của công chức gây thiệt hại người dân chính là chỗ sinh tiêu cực nhiều nhất. Mà điều đáng nói là họ không làm cũng không sao cả” - đại biểu Trần Du Lịch (TP.HCM) bức xúc. Đồng tình với quan điểm của UBTVQH, tuy nhiên ông Lịch cho rằng dự luật đã bỏ sót một trường hợp “không làm, gây thiệt hại” rất phổ biến, đó là việc xây dựng công trình ở đô thị gây thiệt hại cho người dân đến mức nhà hư, nhà sập v.v... Theo ông Lịch, các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp không áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật trong xây dựng theo yêu cầu của tổ chức và cá nhân có liên quan. “Tôi yêu cầu anh, anh không làm, rồi nhà tôi sập, nhà tôi hỏng thì anh phải có trách nhiệm” - ông Lịch nói.
Đại biểu Nguyễn Đình Xuân (Tây Ninh) lại dẫn một ví dụ mới đây nhất ở Hà Nội, là quyết định cấm xe thô sơ chở gà vịt, gia súc, gia cầm. “Áp dụng văn bản đó thì “ông” quản lý thị trường sẽ thổi còi “ông” chở gà vịt để xử phạt hành chính. Nhưng ba ngày sau lại có một văn bản khác bảo là văn bản đấy sai, rút lại, sửa lại. Thế thiệt hại đã xảy ra, người ta bị thu giữ, bị xử phạt như thế thì không được bồi thường hay sao?”. Ông Xuân cho rằng nhà nước vẫn phải bồi thường cả trong những trường hợp này.
Trong phần quy định về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, dự luật quy định nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người tiến hành tố tụng ra bản án, quyết định trái pháp luật. Ban đầu, dự luật xây dựng theo hướng người thi hành công vụ phải có lỗi cố ý thì nhà nước mới phải bồi thường. Tuy nhiên, nhiều đại biểu cho rằng nếu thẩm phán, hội thẩm nhân dân ra bản án mà biết rõ (cố ý) là trái pháp luật thì đã phải chịu trách nhiệm hình sự nên UBTVQH đã thống nhất ý kiến bỏ cụm từ này đi.
Tuy nhiên, đại biểu Phạm Quý Tỵ (Bình Dương) cho rằng quy định như vậy rất khó thực hiện. Đồng tình, đại biểu Trần Văn Độ (An Giang) phân tích: “Hàng năm chúng ta có khoảng 200 ngàn vụ án dân sự. Khác với tố tụng hình sự, chỉ có oan mới bồi thường, còn sai thì không; đối với án dân sự là hai bên đương sự, sai một đương sự này thì dẫn đến đương sự kia, cho nên trường hợp lọt cũng phải bồi thường, sai, oan cũng phải bồi thường. Hàng năm cả oan, cả sai về dân sự tỷ lệ khoảng 4%-5%, tức là khoảng 8.000 vụ án, mà chúng ta phải giải quyết bồi thường toàn bộ thì đấy là vấn đề tôi thấy rất khó khả thi”. Cả hai đại biểu trên đều có chung kiến nghị là dự luật cần phải quy định rõ hơn, cụ thể hơn điều luật này để bảo đảm tính khả thi.
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh trên mục Toà soạn và bạn đọc có bài Xuống mồ chưa chắc được thi hành án. Bài báo phản ánh: Do bị bệnh tai biến mạch máu não nên việc đi lại của anh Đoàn Kim Tự (SN 1960, ngụ Biên Hòa - Đồng Nai) hết sức khó khăn. Không còn ai tin cậy để ủy quyền, vì vậy anh phải cố lê từng bước chân chậm chạp, yếu ớt đến tòa soạn Báo CATP để cầu cứu.
Cầm bản án đã có hiệu lực pháp luật đưa chúng tôi xem, anh Tự tường trình: khoảng giữa năm 2008, sau thời gian đi chữa trị hai căn bệnh ung thư và tai biến mạch máu não về, anh tá hỏa khi phát hiện “sổ đỏ” miếng đất gần 400m2 và “sổ hồng” của căn nhà có xây kèm trại heo khá quy mô cùng tọa lạc tại P. Tân Biên (TP. Biên Hòa) đã bị đứa cháu tên là Phan Hồng Sỹ (SN 1976, hiện đã chết) dùng giấy ủy quyền giả làm hồ sơ đem đi cầm cố, thế chấp tại tiệm cầm đồ Quốc Công và Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Tân Biên vay tiền sử dụng vào việc ăn xài, hút chích ma túy. Riêng đàn heo 250 con (heo nái giống ngoại) trị giá trên 1,5 tỷ đồng thì bị một người thân trong gia đình bắt bán sạch trơn. Anh Tự đã gửi đơn tố cáo đối tượng chiếm đoạt tài sản của mình tới CA Đồng Nai và khởi kiện những người chiếm giữ giấy tờ đất bất hợp pháp tại tòa. Tính đến thời điểm này, trong số tài sản anh Tự đòi lại, các cơ quan chức năng mới giải quyết được phần “sổ đỏ”. Song, mặc dù anh đã có đơn yêu cầu thi hành án (THA) nhưng đến giờ bản án của tòa vẫn chưa được thực thi trong khi bệnh tình của anh đang lâm vào cảnh ngặt nghèo, rất cần tiền chữa trị.
Theo bản án dân sự sơ thẩm số 14 ngày 14-1-2009 của TAND TP. Biên Hòa thì vào ngày 27-4-2007, Phan Hồng Sỹ cầm bộ hồ sơ gồm “sổ đỏ” đứng tên Đoàn Kim Tự và “khế ước vay vốn”, nội dung Sỹ được anh Tự ủy quyền đem giấy tờ đất đến tiệm cầm đồ Quốc Công do bà Lê Thị Bông làm chủ để thế chấp vay 100 triệu đồng. Tháng 2-2008, sau khi Sỹ chết, bà Bông gọi điện đề nghị anh Tự trả tiền gốc lẫn lãi để nhận lại giấy. Anh Tự không đồng ý nên khởi kiện ra tòa. Sau khi giám định, cơ quan chức năng kết luận chữ ký trong giấy ủy quyền không phải của anh Tự nên Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên buộc bà Lê Thị Bông trả lại “sổ đỏ” cho chủ sở hữu. Ngày 11-2-2009, anh Tự có đơn yêu cầu gửi THADS TP. Biên Hòa. 40 ngày sau, anh Tự khấp khởi vui mừng khi nhận được thông báo số 170 của THADS TP. Biên Hòa về việc nhận lại tiền, tài sản. Thế nhưng đúng hẹn, chiều 25-3-2009, anh Tự đến nơi thì choáng váng khi nghe chấp hành viên (CHV) cho hay muốn nhận lại sổ phải nộp 100 triệu đồng. Anh Tự thắc mắc nhưng không được CHV giải thích là tiền gì rồi bặt vô âm tín từ đó đến nay.
Vì chỉ là tường trình một phía nên hôm chúng tôi đến gặp ông Long - CHV, người thay bà Đồng Thị Sương tiếp tục thụ lý vụ việc này để tìm hiểu thực hư thế nào thì cùng thời điểm trên có 2 cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân thuộc tỉnh Đồng Nai cũng đến làm việc theo đơn khiếu nại của anh Tự nên chúng tôi không tiện trao đổi về vấn đề trên mà chỉ quan tâm đến tiến độ THA. Theo ông Long thì hiện THADS TP. Biên Hòa đã có công văn xin ý kiến tác nghiệp của THADS tỉnh Đồng Nai vì qua làm việc, bà Lê Thị Bông cho hay trước ngày TAND TP. Biên Hòa đưa vụ án ra xét xử thì bà Lê Thị Tíu (mẹ kế anh Tự) đã trả 100 triệu đồng để chuộc lại “sổ đỏ” (có giấy biên nhận), vì vậy bà Bông không thể THA được.
Căn cứ hồ sơ, nhiều người nhận thấy bức xúc của anh Tự là có cơ sở vì các lý do sau: với bà Bông, trong bản án thể hiện tại thời điểm xét xử, bị đơn vẫn thừa nhận hiện còn đang quản lý “sổ đỏ” của anh Tự nhưng sau đó lại nói đã giao cho bà Tíu. Sau khi phân tích, HĐXX không chấp nhận điều này vì việc giao - nhận trên hoàn toàn trái pháp luật. Do vậy nếu thấy bất lợi, không thể THA về sau thì bà Bông có quyền kháng cáo, song bà ta đã chấp nhận phán quyết của tòa thì giờ phải thực thi nghĩa vụ (hoặc tự thương lượng hoặc khởi kiện bà Tíu... lấy lại sổ để THA). Còn đối với THADS TP. Biên Hòa, hơn 3 tháng trời họ chỉ làm được mỗi việc... thừa vì lý do bà Bông đưa ra đã bị tòa bác bỏ thể hiện rành rành trong bản án cho nên với đà này thì anh Tự có xuống mồ cũng chưa chắc được THA.
Được biết anh Tự đã gửi đơn đến đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai nhờ can thiệp. Chúng tôi hy vọng anh đã “gõ” đúng cửa trong hành trình đi đòi công lý.
3. Báo điện tử Diễn đàn doanh nghiệp có bài Xây dựng Luật Tiếp cận thông tin: Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước. Bài báo phản ánh: Theo Nhóm nghiên cứu của Hội Luật gia Việt Nam, việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin ở các nước đều đặt ra các vấn đề: Luật áp dụng với các cơ quan công quyền nào; trách nhiệm thuộc về ai; đối tượng cần tiếp cận thông tin; cách thức tiếp cận; các thông tin được tiếp cận; trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin; thách thức khi thực hiện cơ chế tiếp cận thông tin... Đây cũng là mối quan tâm của nhiều chuyên gia pháp lý khi đề đạt ý kiến xây dựng Luật Tiếp cận thông tin.
GS.TS Nguyễn Đăng Dung- Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội - thành viên nhóm khảo sát thực tiễn tại địa phương về thực thi quyền được tiếp cận thông tin vừa mới công bố một số thông tin khiến nhiều người phải quan tâm: "Hầu hết các phiếu điều tra (phiếu thăm dò ý kiến nhằm thu thập thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng Luật Tiếp cận thông tin) đều cho rằng, các cán bộ rất lúng túng khi gặp những trường hợp yêu cầu phải được cung cấp thông tin. Phần lớn họ đều chuyển yêu cầu lên cấp trên. Hiện tượng đóng dấu mật lên các công văn giấy tờ không thuộc phạm trù mật còn tràn lan. Mặc dù đã có những quy định đơn lẻ về việc cung cấp thông tin cho nhân dân ở các văn bản pháp luật đơn ngành, nhưng hầu như các công chức không coi việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của họ...". Từ những thông tin này, các chuyên gia pháp lý trong nhóm khảo sát đã đi đến kết luật rằng: Cần thiết phải có Luật Tiếp cận thông tin quy định quyền của người dân được tiếp cận các thông tin, để họ tự bảo vệ quyền và tài sản của chính mình.
Bàn về vấn đề này, ông Ngô Trung Thành- Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Văn phòng Quốc hội cho rằng, vấn đề tiếp cận thông tin đang được quy định tại nhiều văn bản khác nhau. Tuy nhiên, các quy định này chưa toàn diện và không đầy đủ. Còn nhiều nội dung chưa được quy định, nhất là về trình tự, thủ tục để cá nhân, cơ quan, tổ chức tiếp cận thông tin. Vì vậy, công dân cũng không biết là mình có quyền được tiếp cận thông tin hay không. Ngược lại, các cơ quan nắm giữ thông tin cũng không có cơ sở để công bố thông tin, cung cấp thông tin cho những người quan tâm..."Để các quy định về tiếp cận thông tin có thể điều chỉnh được trong các lĩnh vực khác nhau, bao quát hết được phạm vi của các văn bản hiện hành đang điều chỉnh về vấn đề tiếp cận thông tin, thì đòi hỏi phải có một văn bản có đủ hiệu lực pháp lý điều chỉnh các nội dung về tiếp cận thông tin. Văn bản đó chỉ có thể là Luật Tiếp cận thông tin"- ông Ngô Trung Thành nêu ý kiến.
Nói về vấn đề này, chuyên gia cao cấp của Tổ chức Article 19 Toby Mendel tỏ ra vui mừng khi chứng kiến Việt Nam đã và đang thực hiện các bước đi gia nhập vào cộng đồng đang lớn mạnh của các quốc gia có Luật Tiếp cận thông tin. Ông Toby Mendel đưa ra 5 thành tố quan trọng của một hệ thống đảm bảo tiếp cận thông tin. Đó là Luật Tiếp cận thông tin cần đưa ra một giả định thiên về tiết lộ thông tin. Giả định này cần được áp dụng cho tất cả các cơ quan Nhà nước theo nghĩa rộng và cần được áp dụng đối với tất cả các thông tin do cơ quan Nhà nước nắm giữ; Luật cần quy định nghĩa vụ của các cơ quan công quyền phải chủ động hoặc tự động đăng tải thông tin quan trọng đối với công chúng; Luật cần có thủ tục rõ ràng (những trường hợp nào có thể từ chối tiếp cận thông tin); Quyền khiếu nại việc từ chối tiếp cận thông tin lên một cơ quan độc lập.
Mới đây, Hội Luật gia Việt Nam và Trung tâm Nhân quyền Na Uy đã cùng nhau hợp tác, thực hiện nghiên cứu, đánh giá những kinh nghiệm của quốc tế về Luật Tiếp cận thông tin. Qua rà soát Luật Tự do thông tin và một số luật khác có liên quan của quốc tế, nhóm chuyên gia pháp lý của hai cơ quan nói trên đã đi đến kết luận: Tự do thông tin là quyền của công chúng. Để đảm bảo quyền tự do thông tin, nhiều luật đã quy định điều khoản miễn trừ trách nhiệm hình sự của công chức khi cung cấp thông tin, nếu không phải là thông tin mật. Tự do thông tin là trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan chức trách (cơ quan của Chính phủ, chính quyền địa phương, toà án, doanh nghiệp...). Tuy nhiên, đối tượng áp dụng lại phải tuân thủ theo pháp luật hiện hành của từng nước. Thông tin cần được mở, dễ tiếp cận hay công khai bằng nhiều phương thức: lưu trữ, tạo nguồn mở, xuất bản, truyền thông để đảm bảo quyền "thu thập và truyền tải" thông tin của công chúng. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước không những phải cung cấp thông tin theo yêu cầu, mà còn chủ động truyền tải thông tin ra công chúng bằng nhiều phương tiện và hạ tầng. Đồng thời cung cấp các hỗ trợ cần thiết cho chủ thể yêu cầu, để chủ thể có thể truy cập và thu nhận được thông tin từ những nguồn khác nhau.                                            
Trên đây là điểm báo sáng ngày 22/5/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm