Trong buổi sáng ngày 23/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
1. Báo An ninh thủ đô có bài "Xung quanh việc tạm dừng cấp phép thành lập Văn phòng công chứng". Bài báo phản ánh: Mặc dù các văn phòng công chứng (VPCC) tư được thành lập trong thời gian qua đã mang lại nhiều hiệu quả rõ rệt, nhưng chỉ 6 tháng sau khi VPCC tư đầu tiên khai trương tại Hà Nội, Bộ Tư pháp đã có văn bản gửi UBND thành phố Hà Nội tạm dừng cấp phép cho các VPCC mới.
Trong đơn gửi Báo ANTĐ, ông Lê Văn Năng - một Công chứng viên phản ánh: “Chúng tôi là các Công chứng viên được Bộ Tư pháp bổ nhiệm ngày 18-12-2008. Sau khi nhận quyết định bổ nhiệm, chúng tôi đã xúc tiến việc thành lập VPCC theo quy định. Chúng tôi đã liên hệ và thuê địa điểm tại số 210 phố Trần Quang Khải, Hà Nội từ tháng 12-2008. Ngày 15-1-2009, sau khi chuẩn bị các điều kiện cần thiết và hoàn thiện hồ sơ, chúng tôi đã nộp Đơn xin thành lập VPCC Vạn Xuân tới Sở Tư pháp Hà Nội. Sau đó, Sở Tư pháp đã trực tiếp thẩm tra địa chỉ trụ sở VPCC Vạn Xuân dự định thành lập tại 210 Trần Quang Khải.
Đến 19-1, hồ sơ của chúng tôi đã được chuyển tới UBND thành phố Hà Nội xem xét thành lập. Theo quy định của Luật Công chứng và Phiếu nhận hồ sơ, trong vòng 20 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ thành lập, UBND thành phố xem xét, quyết định cho phép thành lập VPCC. Luật cũng quy định rõ với thời hạn trên “Trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do”.Như vậy, thời gian để cơ quan cấp phép từ chối cũng đã hết, chúng tôi hiểu rằng theo đúng quy định của pháp luật, VPCC Vạn Xuân sẽ được cho phép thành lập nên ngày 20-2, đã đề nghị và được Đoàn Luật sư Hà Nội rút tên chúng tôi khỏi danh sách Đoàn Luật sư. Kể từ ngày 20-2, chúng tôi không được tiếp tục hành nghề luật sư nữa”...
Cũng theo ông Năng, “trong khi chờ đợi thành lập, các công chứng viên đã tích cực chuẩn bị mọi điều kiện để VPCC sẽ đi vào hoạt động sau khi cấp phép như tuyển nhân viên, mua sắm máy tính để phục vụ cho hoạt động công chứng. Nhưng kể từ khi nộp hồ sơ đến nay đã gần 2 tháng, chúng tôi vẫn chưa nhận được kết quả. Sau khi liên hệ với Sở Tư pháp Hà Nội, chúng tôi được biết, Bộ Tư pháp đã có công văn đề nghị tạm dừng cấp phép thành lập VPCC từ ngày 16-1. Nhưng ngày chúng tôi nộp hồ sơ là ngày 15-1, trước ngày Bộ Tư pháp đề nghị tạm dừng.
Đề nghị tạm dừng không báo trước của Bộ Tư pháp không quy định thời điểm bắt đầu tạm dừng là lý do cơ quan cấp phép dừng cấp phép thành lập VPCC Vạn Xuân. Hiện nay, chúng tôi không biết sẽ tiếp tục làm gì nếu VPCC không được cấp phép do không thể quay lại hành nghề luật sư”.Không chỉ có trường hợp của ông Năng mà còn nhiều văn phòng khác cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Điều này đã gây không ít khó khăn cho các công chứng viên khi họ bị đẩy vào tình trạng “tiến, thoái lưỡng nan”...
Ngày 16-1-2009, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 142/BTP-HCTP gửi UBND thành phố Hà Nội về việc tạm dừng cho phép thành lập VPCC. Đến ngày 23-1, Sở Tư pháp Hà Nội đã có Công văn số 125 gửi Bộ Tư pháp và UBND thành phố đề nghị cho phép thành lập đối với những hồ sơ mà Sở Tư pháp đã thụ lý và đang trình UBND thành phố, trong đó có VPCC Vạn Xuân. Nhưng đến thời điểm hiện tại, Bộ Tư pháp vẫn chưa có câu trả lời.
Về nguyên nhân tạm dừng cấp phép thành lập VPCC mới tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng cho biết, trước khi Hà Nội mở rộng, TP đã có đề án quy hoạch VPCC, cho phép thành lập các văn phòng để hoạt động. Nhưng hiện nay TP Hà Nội đã được mở rộng địa giới hành chính nên cần phải có quy hoạch bổ sung trên cơ sở quy hoạch của TP mở rộng cho phù hợp với thực tế.
Sau khi Hà Nội có quy hoạch sẽ trình lên Bộ Tư pháp để Bộ nghiên cứu, tổng hợp rồi hoàn chỉnh một đề án quy hoạch chung, trình Thủ tướng phê duyệt một quy hoạch chung cho cả nước. Việc tạm dừng thành lập mới VPCC tại Hà Nội không ảnh hưởng gì đến hoạt động của hệ thống VPCC hiện nay và phù hợp với luật định. Việc tạm dừng bao lâu phụ thuộc vào TP Hà Nội sẽ triển khai lập đề án quy hoạch bổ sung, quy hoạch lại. Ngoài ra, trong năm 2009, Bộ sẽ trình Thủ tướng đề án quy hoạch các VPCC trong toàn quốc nên các địa phương cũng không thể chậm trễ. Bộ Tư pháp rất ủng hộ các VPCC được thành lập do hiệu quả mà nó mang lại, nhưng để hoạt động này đi vào nền nếp, theo kế hoạch chung... phải trên cơ sở đề án quy hoạch.
Không đồng quan điểm với Bộ Tư pháp, một số luật sư cho rằng, đã xã hội hóa thì cứ để những ai có đủ điều kiện được phép lập VPCC và coi đây là một sự cạnh tranh lành mạnh. Nơi nào làm tốt, phục vụ chuyên nghiệp, giá cả hợp lý, khách hàng sẽ tự tìm đến. Theo TS luật Nguyễn Ngọc Điện, cần quy hoạch để bảo đảm công ăn việc làm cho Công chứng viên và tránh chuyện cạnh tranh không lành mạnh. Nhưng lẽ ra việc quy hoạch phải được đặt ra và giải quyết trước khi triển khai hoạt động công chứng tư. Đợi đến khi đã mở được một số rồi mới tạm ngừng để quy hoạch thì vô hình trung, Nhà nước tạo ra tình trạng phân biệt đối xử giữa người đến trước và người đến sau.
Báo cũng có bài "Hà Nội góp ý 4 dự án luật". Bài báo phản ánh: Ngày 19-3, đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hà Nội đã tổ chức đóng góp ý kiến vào 4 dự án: Luật Lý lịch tư pháp, Luật Cơ quan đại diện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài, Luật Bồi thường Nhà nước và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự. Về dự án Luật Lý lịch tư pháp, đa số các đại biểu nhất trí về sự cần thiết của luật này.
Hiện nay, nhu cầu cung cấp lý lịch tư pháp của tổ chức, công dân đang tăng nhanh. Vừa qua, Sở Tư pháp đã nhận được tới 1.125 yêu cầu cung cấp lý lịch tư pháp. Thông tin chủ yếu hiện nay lấy từ tàng thư của công an các tỉnh, thành phố. Về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, các đại biểu đã thảo luận về các vấn đề: Liệu có nên phi hình sự hóa tội đánh bạc; bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội danh; có nên xử lý hình sự đối với pháp nhân vi phạm quy định pháp luật về môi trường; chỉ xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy...
Theo đại diện VKSND TP Hà Nội, nên bỏ khung tử hình đối với tội hiếp dâm và tội phạm kinh tế vì thực tế, trên địa bàn thành phố, nhiều năm qua, hầu như không có đối tượng phạm tội nào bị tòa tuyên tử hình. Tuy nhiên, đại diện VKSND TP Hà Nội cho rằng, chưa nên bỏ quy định xử lý hình sự đối với người sử dụng trái phép chất ma túy bởi biện pháp quản lý hành chính hiện nay chưa đủ mạnh.
2. Báo Người lao động phản ánh: Theo một nguồn tin, liên quan đến vụ “Cơ quan Thi hành án Cần Giuộc lạm quyền” (Báo NLĐ ngày 21-3), Đảng ủy Sở Tư pháp tỉnh Long An vừa thành lập tổ kiểm tra, làm rõ dấu hiệu sai phạm của 4 cán bộ đang công tác tại Phòng Thi hành án tỉnh Long An trong quá trình thanh tra cơ quan Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc.
Bốn cán bộ đó là Nguyễn Văn Gấu (trưởng phòng), Đỗ Văn Minh (phó trưởng phòng), Trần Quốc Việt và Hà Văn Khanh. Trong số này, các ông Minh, Việt, Khanh là thành viên Đoàn Thanh tra của Sở Tư pháp, thanh tra về việc quản lý tài chính, chấp hành pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại cơ quan Thi hành án huyện Cần Giuộc. Ông Nguyễn Văn Gấu bị kiểm tra với tư cách là người liên quan...
3. Báo Nhân dân có bài Vướng mắc trong thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án. Bài báo phản ánh: Nhà nước có những quy định chặt chẽ về thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hoạt động này, còn nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập, gây thiệt thòi quyền lợi chính đáng của những người tham gia mua đấu giá hoặc của người có tài sản bị đấu giá.
Bạn đọc Lý Tuyết Hoa (TP Hồ Chí Minh): Việc bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự cần tuân thủ trình tự chặt chẽ các bước: Kiểm kê, niêm phong, bảo quản, định giá, thông báo đấu giá, tổ chức đấu giá, thanh toán và bàn giao tài sản đấu giá. Nhiều vụ việc được tổ chức đấu giá công khai, minh bạch, đạt kết quả tốt, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Nhưng, cũng có không ít trường hợp, việc đấu giá được tiến hành tuỳ tiện, sai nguyên tắc. Có hiện tượng nhầm lẫn, sai sót trong quá trình kiểm kê số lượng tài sản đấu giá hoặc cố ý định giá tài sản không đúng giá trị thực. Có vụ cố ý làm giả hồ sơ đấu giá, có hành vi sửa chữa văn bản, gian lận, lừa dối trong phiên đấu giá.
Bạn đọc Mai Xuân Thắng (Ðồng Nai): Việc tổ chức bán đấu giá khu nhà xưởng 34-36 C, xa lộ Hà Nội (Dĩ An, Bình Dương) kéo dài từ nhiều năm nay, trải qua ba lần định giá, sáu lần thông báo bán đấu giá, nhưng vẫn còn những thắc mắc, khiếu kiện. Bà Lê Thị Hồng là người trúng đấu giá, được quyền mua số tài sản này với giá hơn 19,6 tỷ đồng, nhưng hết thời hạn thanh toán, bà Hồng vẫn chưa nộp đủ tiền. Sau đó, cơ quan pháp luật ở địa phương lại tiếp tục cho tổ chức bán đấu giá lại. Theo phản ánh của những người liên quan, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tỉnh Bình Dương là đơn vị tổ chức đấu giá vụ này đã có sai sót, vi phạm trong quá trình tổ chức đấu giá.
Bạn đọc Nguyễn Thu Hà (Hà Nội): Nhiều trường hợp "dở khóc, dở cười" khi người trúng đấu giá đã hoàn tất các thủ tục thanh toán theo đúng quy định của pháp luật, nhưng không thể nhận được tài sản để sử dụng, dẫn đến xảy ra tranh chấp, khiếu kiện phức tạp. Thí dụ, vụ việc của bà Nguyễn Nguyệt Minh là người trúng đấu giá mua ngôi nhà số 31, ngách 589/89, đường Láng (Ðống Ða, Hà Nội). Bà Minh nộp tiền đầy đủ tại Công ty Cổ phần bán đấu giá Hà Nội. Vậy nhưng, bà Minh hết sức ngỡ ngàng khi bà đến ngôi nhà mình đã bỏ tiền mua đấu giá lại thấy người khác chiếm ở. Bà mang đơn khiếu nại gửi đi khắp nơi, thì mỗi cơ quan trả lời với nội dung khác nhau.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thí điểm thừa phát lại ở TP.HCM: Có được cưỡng chế thi hành án?. Bài báo phản ánh: Nếu chỉ trưởng THADS mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thì hóa ra ông ta là.... “cấp trên” của thừa phát lại? Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo nghị định về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP.HCM. Dự kiến cuối tháng Ba sẽ có một cuộc hội thảo tổ chức tại TP.HCM để lấy ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện dự thảo trước khi trình Chính phủ.
Dự thảo quy định, nếu cơ quan, tổ chức hay cá nhân từ chối yêu cầu của thừa phát lại, thừa phát lại có quyền lập văn bản ghi nhận sự từ chối đó. Đối tượng từ chối phải chịu trách nhiệm và bồi thường thiệt hại nếu có do việc từ chối trái pháp luật yêu cầu của thừa phát lại. Một trong những chức năng quan trọng của thừa phát lại là trực tiếp thi hành bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự. Theo đó, thừa phát lại có quyền triệu tập đương sự để giải quyết việc thi hành án (THA), được quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp cưỡng chế THA.
Về thẩm quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA, có ý kiến đề xuất nên giao thẳng quyền này cho thừa phát lại. Quan điểm khác lại cho rằng trưởng Thi hành án dân sự (THADS) TP.HCM sẽ phê duyệt đối với những quyết định phải huy động lực lượng. Cũng có ý kiến đề xuất chỉ có trưởng THADS mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế. Các chuyên gia phân tích, nếu giao quyền trực tiếp cho thừa phát lại, trong trường hợp cần bảo vệ cưỡng chế THA, thừa phát lại liệu có thể huy động được lực lượng công an hỗ trợ hay không. Nếu theo phương án sau thì mặc nhiên đã công nhận trưởng THADS là “cấp trên” của thừa phát lại.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính cho biết đây chính là vấn đề khó giải quyết nhất khi triển khai chế định này. “Các nước xã hội hóa hoạt động THA có một điểm rất quan trọng: họ có thẩm phán THA. Những người này sẽ thay mặt nhà nước quyết định những vấn đề mang tính quyền lực. Khi cưỡng chế, thừa phát lại phải xin lệnh của thẩm phán THA” - ông Chính nói.
Một chức năng khác của thừa phát lại là xác minh điều kiện THA. Biên bản xác minh điều kiện THA của thừa phát lại là cơ sở để cơ quan THA, thừa phát lại khác tổ chức thi hành. Có ý kiến cho rằng về nguyên tắc, nếu xác minh sai thừa phát lại phải chịu trách nhiệm, cơ quan THA, thừa phát lại khác không được quyền từ chối thi hành vì đối chiếu, so sánh thì chỉ tòa án mới có quyền hủy vi bằng do thừa phát lại lập. Tuy nhiên, nếu có căn cứ nghi ngờ xác minh của thừa phát lại là thiếu chính xác, không đầy đủ thì giải quyết như thế nào, ai có thẩm quyền giải quyết... Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính yêu cầu các thành viên tổ biên tập phải làm rõ vấn đề này.
Theo dự thảo, nếu không đồng ý với việc THA, tống đạt quyết định, giấy tờ của thừa phát lại, đương sự có quyền khiếu nại đến giám đốc Sở Tư pháp. Trong trường hợp không đồng ý với giải quyết của giám đốc Sở, đương sự có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tư pháp, quyết định giải quyết khiếu nại của bộ trưởng có hiệu lực thi hành. Đối với việc lập vi bằng, nếu có tranh chấp thì các bên liên quan có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.
5. Báo Lao động có bài Chuyện hy hữu ở Đà Nẵng: Toà án giúp cháu nội chiếm nhà ông bà. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Cháu nội đưa đơn yêu cầu cơ quan thi hành án, cưỡng chế ông bà mình để chiếm ngôi nhà do họ sở hữu hợp pháp. Cơ quan thi hành án "kiên quyết" buộc cưỡng chế giao nhà trước 20.3.
Hai cụ già hơn 80 tuổi, đang tất tả chạy kêu cứu khắp nơi. Sự kiện oái oăm này tiếc thay, khởi nguồn từ một phán quyết trái pháp luật trong phiên toà xét xử ly hôn do TAND quận Hải Châu thụ lý. Đó là trường hợp của vợ chồng ông Lưu Quý Thảo, hiện sống tại 122, đường Núi Thành - TP.Đà Nẵng.
Tháng 3.2007, ông bà Lưu Quý Thảo, trú tại 122 Núi Thành đột ngột nhận được án lệnh phải bàn giao ngôi nhà mình đang ở, có sở hữu hợp pháp cho cháu nội của mình là Lưu Hoàng Mỹ. Ông bà vội tìm đến cơ quan toà án thì mới hay từ tháng 1.2004, phán quyết của cơ quan tư pháp đã giao quyền sở hữu, quản lý sử dụng ngôi nhà 122 Núi Thành cho cháu nội của ông bà. Nguyên tháng 12.2003, TAND quận Hải Châu thụ lý vụ ly hôn, chia tài sản giữa anh Lưu Hoàng Long, là con ruột vợ chồng ông Lưu Quý Thảo và chị Phạm Thị Hoàng Yến (dâu). Một tháng sau, toà ban hành bản án, chấp nhận thuận tình ly hôn và phán quyết, vợ (chị Yến) nuôi con là Lưu Hoàng Mỹ (SN 1991), đồng thời theo ý nguyện của 2 bên, giao quyền sở hữu và sử dụng ngôi nhà 122 Núi Thành, hiện gia đình đang ở chung với ông bà nội cho cháu Mỹ khi cháu đủ 18 tuổi.
Điều hết sức hy hữu ở đây là ngôi nhà 122 Núi Thành lúc bấy giờ và cho đến hiện nay vẫn do vợ chồng ông Lưu Quý Thảo sở hữu và sử dụng hợp pháp và gia đình Long, Yến cùng con là Mỹ chỉ là người ở cùng. Và hơn thế, bản án ly hôn chia tài sản này được giữ "bí mật" suốt hơn 3 năm trời cho đến khi khổ chủ nhận án lệnh phải rời nhà để giao cho cháu nội của mình.
Tất nhiên ông bà Lưu Quý Thảo không thể nào chịu đựng nổi oan ức như vậy và hành trình đi tìm lẽ công bằng của hai cụ già hơn 80 tuổi bắt đầu. Do bản án ly hôn chia tài sản này được TAND quận Hải Châu "bảo mật" kỹ quá, nên khi ông bà Thảo hay tin tài sản của mình bị giao cho người khác, thì đã quá hạn phúc thẩm từ lâu và quá cả thời hiệu kiến nghị giám đốc thẩm. Tháng 3.2007, ông bà gửi đơn đến Viện KSND thành phố Đà Nẵng đề nghị kháng nghị theo trình tự tái thẩm. Ngày 27.3.2007 Viện KSND TP.Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số 06/QĐ-KNTT-KSDS, kháng nghị một phần quyết định công nhận sự thoả thuận của vụ án ly hôn giữa anh Long, chị Yến, đề nghị TAND TP.Đà Nẵng đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tái thẩm theo hướng: " Huỷ phần công nhận thoả thuận về tài sản chung của vợ chồng anh Long, chị Yến" và tạm đình chỉ thi hành phần công nhận thoả thuận về tài sản chung.
Nhưng bất ngờ 4 tháng sau Viện KSND thành phố Đà Nẵng lại ra Quyết định số 07 (cùng do 1 người ký), rút quyết định kháng nghị số 06 ngày 27.3.2007 ban hành trước đó vì " Nội dung mà kháng nghị số 06/QĐ-KNTT-KSDS ngày 27.3.2007... đưa ra để chứng minh là tình tiết mới không có cơ sở vững chắc". Dù rằng ngay trong quyết định này vẫn thừa nhận rằng, TAND quận Hải Châu công nhận tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Thảo là tài sản chung của vợ chồng anh Long, chị Yến "là không đúng", vi phạm các quy định về thủ tục giám đốc thẩm... Và cứ thế, đơn thư đòi lẽ công bằng của ông bà Lưu Quý Thảo từ đó đến nay vẫn lòng vòng qua khắp các cửa tư pháp.
Điều 304 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định tính chất của tái thẩm khi " có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định của toà án, các đương sự không biết được khi toà án ra bản án, quyết định đó". Việc mang lại một phán quyết công bằng cho ông bà Lưu Quý Thảo, không chỉ khẳng định bản chất "vị nhân" của pháp luật, mà còn thể hiện tính bất biến gốc rễ luân thường đạo lý dân tộc trong mọi thời đại.
Báo cũng có bài Bước chuyển lịch sử. Bài báo phản ánh: Giới luật sư đang chào đón một sự kiện trọng đại khi Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần đầu tiên nhằm thành lập Liên đoàn Luật sư VN (LĐLSVN) sắp được tổ chức tại Hà Nội. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử, khẳng định vai trò của tổ chức quan trọng này trong hệ thống chính trị, đặt nền tảng cho đội ngũ luật sư có được một vị thế mới trong sự vận hành các thiết chế tư pháp và đời sống xã hội.
Có thể nói, trải qua những thăng trầm gắn bó, song hành với lịch sử đất nước, nhu cầu hình thành về một tổ chức là nơi đại diện cho đội ngũ hơn 5.300 luật sư chính thức và hơn 2.000 người tập sự hành nghề luật sư đã ở vào giai đoạn chín muồi, không chỉ phản ánh mong muốn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với vị thế và hình ảnh của luật sư trong xã hội là người đại diện cho sự công bằng, dân chủ và tiến bộ, mà còn là nhu cầu tự thân từ phía các luật sư.
Qua hơn 22 năm đổi mới hướng đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, đội ngũ luật sư VN lại có thêm được những kinh nghiệm từ những va đập trong đời sống tố tụng và tư vấn phục vụ cho các chủ thể xã hội, từng bước tạo lập được vị trí, hình ảnh trong lòng xã hội và trái tim công chúng. Vì thế, trước mỗi một sự kiện chính trị- pháp lý hoặc tố tụng nào, các cơ quan quyền lực và hành chính, tố tụng, cũng như dư luận xã hội và người dân đều trông cậy vào các đánh giá về mặt pháp lý mang tính phản biện của giới luật sư.
Theo chúng tôi, cần xác định đúng đắn tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ, quyền hạn của LĐLSVN và địa vị pháp lý của tổ chức này trong hệ thống chính trị và tư pháp. Trước hết, đây là một tổ chức xã hội-nghề nghiệp được thành lập một cách tự nguyện, các đoàn luật sư địa phương có chung mục đích tập hợp, đoàn kết đội ngũ luật sư trong hoạt động thường xuyên và duy trì các chuẩn mực nghề nghiệp; hỗ trợ nhau hoạt động hiệu quả, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Là một tổ chức được thành lập một cách tự nguyện, thực hành tự quản không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên Liên đoàn, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, các thành viên của LĐLSVN tự nguyện chấp nhận sự ràng buộc với nhau trong một tổ chức thống nhất, hoà quyện chung mục tiêu phụng sự cho sự phát triển nghề nghiệp luật sư, coi đó là lợi ích cao nhất.
Đó là nơi tập hợp ý nguyện, hành động chung của những người được phép hành nghề luật sư, khác với các tổ chức xã hội-nghề nghiệp khác nên từ cấu trúc đến các mối quan hệ trong tổ chức đều phải dựa trên nền tảng chuẩn mực của các nguyên tắc pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, hướng đến quan niệm coi trọng tính chất phục vu xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền, chiến lược cải cách tư pháp.
Với tư cách là người đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư, các đoàn luật sư trong cả nước, LĐLSVN cần là nơi hội tụ và thể hiện đầy đủ chức năng xã hội của luật sư, là một thiết chế mang tính phản biện, đại diện bảo vệ được tính độc lập và bình đẳng trong việc tham gia thực hiện các phạm vi hành nghề luật sư. Chính LĐLSVN sẽ đóng vai trò kết nối và điều phối hoạt động giữa tổ chức hành nghề luật sư với tổ chức xã hội-nghề nghiệp là đoàn luật sư địa phương, nhằm tạo ra mô hình chuyên môn tự quản đại diện cho quyền lợi của luật sư, xúc tiến việc giáo dục và đào tạo thường xuyên, bảo vệ sự chính trực và thanh liêm của nghề nghiệp luật sư.
Về phần mình, LĐLSVN cũng phải làm hết sức mình, cùng với các cơ quan quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận với những dịch vụ pháp luật một cách bình đẳng, đồng đều và có hiệu quả, đồng thời luật sư có thể bào chữa và hỗ trợ khách hàng theo đúng pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp mà không bị cản trở hoặc can thiệp một cách không đúng đắn.
Khi đề cập đến "thực hiện chức năng tự quản" của tổ chức luật sư trong phạm vi cả nước, cần nhấn mạnh thêm đến việc thực hiện chức năng đó trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, tạo cho LĐLSVN và các thành viên của tổ chức này một vị thế độc lập mang tính phản biện, tạo môi trường pháp lý an toàn cho các chủ thể xã hội. Đến lượt mình, đội ngũ luật sư phải có khả năng đáp ứng nhu cầu pháp lý của người dân một cách minh bạch và tạo cho người dân nhận biết chân thực và công bằng các nhu cầu chính đáng ấy. Người dân trông chờ vào sự trợ giúp về mặt pháp lý của luật sư vì họ tin tưởng không chỉ vào kiến thức pháp lý, kỹ năng hành nghề, mà cả về tính liêm chính, chuẩn mực trong hành vi của cá nhân và tổ chức luật sư như là một tầng lớp trí thức ưu tú.
LĐLSVN cần hướng đến xây dựng các chuẩn mực, phẩm chất của luật sư không chỉ là người tuân thủ pháp luật, có kỹ năng và kỷ luật, tinh thông nghề nghiệp, tận tâm với khách hàng, mà còn phải là người có tấm lòng yêu thương đối với xã hội, có lối sống lành mạnh, tự tin vào chính nghĩa, công bằng xã hội, vừa giữ được giới hạn các chuẩn mực của pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp, vừa biết vận dụng sáng tạo tinh thần thượng tôn pháp luật vào việc xử lý các sự kiện trong đời sống thực tiễn.
6. Trang web Đài truyền hình Việt Nam có bài Công chứng viên cần mua bảo hiểm nghề nghiệp – đã cấp thiết?. Bài báo phản ánh: Người dân đã quen với bảo hiểm y tế, bảo hiểm xe cộ… nhưng có một loại bảo hiểm mà họ không phải bỏ tiền ra mua nhưng liên quan trực tiếp đến quuyền lợi của mình thì có lẽ ít người biết tới. Đó là loại bảo hiểm nghề nghiệp công chứng viên. Trên thế giới các công chứng viên khi hành nghề buộc phải mua bảo hiểm nghề nghiệp. Còn ở Việt Nam, hầu như công chứng viên không mua hoặc không muốn mua. Tuy nhiên, đối tượng thiệt hại trực tiếp từ việc này chính là người dân nếu công chứng viên mắc phải sơ xuất nào đó.
Hàng trăm văn phòng công chứng cả nhà nước và tư nhân hiện đang hành nghề tại Việt Nam mới chỉ có vài văn phòng mua bảo hiểm nghề nghiệp cho công chứng viên. Lý do mà họ đưa ra là các hãng bảo hiểm chưa mặn mà với loại hình này, vì thế chưa có nhiều hãng xây dựng các gói bảo hiểm để họ mua. Các hãng bảo hiểm cho rằng khó tính được lợi nhuận của các phòng công chứng khi mới chỉ đi vào hoạt động hơn nửa năm qua vì thế có thể họ sẽ gặp phải rủi ro nếu bán loại bảo hiểm này.
Ông Phạm Thanh Cao, Trưởng phòng quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp Hà Nội cho hay “Các công ty bảo hiểm chưa tính được khả năng lợi nhuận của họ trong lĩnh vực này như thế nào và hoạt động rủi ro ra làm sao vì thế dù chúng tôi khuyến khích văn phòng công chứng mua bảo hiểm nhưng không có đơn vị nào bán để mà mua”.
Luật sư Trịnh Văn Quyết, Văn phòng luật SMIC trích dẫn: “Luật công chứng đã ra đời năm 2006 quy định rõ phải bồi thường thiệt hại do lỗi công chứng viên đối với người yêu cầu công chứng. Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp”.
Hiện, Hà Nội có 44 phòng công chứng nhà nước lẫn tư nhân nhưng cũng mới chỉ có văn phòng công chứng Hà Nội và công chứng Việt thực hiện việc mua bảo hiểm nghề nghiệp. Trung bình mỗi phòng công chứng này có một công chứng viên. Họ có thể mua gói bảo hiểm từ 40 triệu đến cả tỷ đồng cho một công chứng viên với hạn mức bồi thường từ 100 triệu tới vài tỷ đồng. Đây không phải là số tiền nhỏ với nhiều phòng công chứng mới hoạt động, nhưng có bảo hiểm nghĩa là đảm bảo sự an toàn và chống rủi ro cho cả công chứng viên và người dân.
TS Luật, công chứng viên (CCV) Lê Quốc Hùng, Văn phòng công chứng Hà nội bình luận: “Lỡ ra trong văn bản công chứng có sơ xuất nào đó mà từ sơ xuất đó có thể không tiến hành được giao dịch của khách hàng. Vậy ai bồi thường thiệt hại đó cho khách hàng. Lẽ đương nhiên là CCV phải bồi thường nhưng CCV trong nhiều trường hợp có thể không bồi thường hết được, cho nên phải mua bảo hiểm. Mua bảo hiểm bảo đảm an toàn cho cả CCV lẫn khách hàng”. Hiện các giao dịch công chứng chủ yếu liên quan tới bất động sản, lĩnh vực được cho là phức tạp và liên quan tới tài sản trị giá lớn. Ngay các công chứng viên cũng thừa nhận, khả năng sai sót là rất cao. Nếu một giao dịch nào đó của người dân không thực hiện được do lỗi của công chứng viên, họ sẽ kêu ai? Lẽ đương nhiên là công chứng viên là người phải bồi thường nhưng thực tế hầu như mới chỉ dừng ở thương lượng.
7. Trang web Vietstock có bài Sửa đổi Luật sở hữu trí tuệ: Nhiều băn khoăn. Bài báo phản ánh: Từng là một dự án luật lập kỷ lục về thời gian ngắn nhất trong lịch sử lập pháp của Quốc hội (11 tháng từ nghiên cứu, soạn thảo đến trình duyệt và thông qua), tới đây, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 dự kiến sẽ được sửa đổi nhiều nội dung quan trọng, trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp vào tháng 5 tới.
Một trong số đó là thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan, tới đây sẽ được kéo dài đến 75 năm thay vì 50 năm như hiện nay. Bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội còn phân vân: “Kéo dài quá thì chúng ta bảo vệ được tác giả, bảo vệ được tác phẩm nhưng lại cản trở khả năng thụ hưởng của công chúng. Do đó cần cân nhắc để vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, cân bằng được lợi ích của chủ sở hữu, của công chúng thụ hưởng và nhà nước”.
Thời hạn đăng ký sáng chế, sở hữu kiểu dáng công nghiệp cũng là một vấn đề được bàn luận khá sôi nổi. Dự án Luật đề nghị kéo dài gấp đôi thời gian quy định như hiện nay (lên tới từ 12 tháng đến 24 tháng, tùy loại đăng ký), do tình trạng quá tải của các cơ quan cấp phép, trong khi đây lại là vấn đề phức tạp và mới mẻ đối với Việt Nam. Đa số ý kiến tại UBTVQH không đồng tình với quy định này. Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Đặng Vũ Minh phân tích cặn kẽ: “Đối với nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp thì hoặc nên giữ nguyên thời hạn như hiện nay, hoặc nên rút ngắn hơn thì càng tốt nữa. Việc cấp các chứng nhận nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp chậm trễ sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu như khó khăn trong vấn đề xét cấp thì chỉ nên giãn thời gian đối với đơn sáng chế”. Đây cũng là quan điểm của Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng Đào Trọng Thi: “Cần đánh giá thời gian thực tế để xử lý một công việc. Nếu việc quá tải, người vẫn như vậy mà số đăng ký sáng chế tăng lên, thì giải pháp là chủ động điều chỉnh con người, trang thiết bị và trình độ. Hiện tượng chiếm dụng các phát minh sẽ xảy ra nếu thời gian đăng ký bị kéo dài”.
Tình trạng người làm không xuể việc tại cơ quan quản lý nhà nước cũng chính là lý do khiến nhiều ý kiến băn khoăn: nên giao cho cơ quan nhà nước về SHTT thực hiện hoạt động giám định về SHTT để bảo đảm cung cấp ý kiến chuyên môn sâu sắc và đáng tin cậy cho các cơ quan thực thi (thanh tra các ngành văn hóa, khoa học công nghệ, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan...) hay xã hội hóa khâu này, bởi việc tham gia của cơ quan nhà nước trong hoạt động giám định có thể coi như “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh Lê Quang Bình cho rằng: “Có lẽ nên có những công ty, trung tâm (thuộc hiệp hội các ngành nghề chẳng hạn) hoạt động mang tính chất dịch vụ công để thực hiện giám định SHTT, còn nhà nước nên tập trung vào vấn đề ban hành văn bản qui phạm pháp luật, rồi tổ chức thi hành, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện”.
Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động, Luật sư Phạm Vũ Khánh Toàn, Trưởng Văn phòng Luật sư Phạm và liên danh phản biện: “Mấu chốt của vấn đề phải là nâng cao năng lực của Tòa án, tiến tới có những thẩm phán chuyên về SHTT. Không thể giao việc này cho các tổ chức xã hội hoặc tư nhân, vì kết quả giám định loại này gần như đồng nghĩa với “phán quyết” rằng, ai đó có hoặc không vi phạm pháp luật về SHTT. Trong khi chưa làm được việc đó thì khi xảy ra các vụ kiện tụng, tranh chấp, Tòa án nên trưng cầu ý kiến từ Cục SHTT”. Ông Toàn nhận định, dự án luật sửa đổi lần này “mới chỉ xử lý được khoảng 1/3 những vấn đề bất cập của Luật 2005”.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 23/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.