Trong buổi sáng ngày 18/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Người lao động phản ánh: Ngày 17-3, đoàn công tác của Bộ GTVT đã có kết luận về việc gãy dầm cầu Chợ Đệm thuộc dự án đường cao tốc TPHCM - Trung Lương. Theo đó, qua kiểm tra toàn bộ các hồ sơ chứng chỉ thí nghiệm, kiểm tra chất lượng 2 dầm số 9 và số 10 cho thấy quá trình thực hiện từ khi tập kết vật liệu, lắp đặt cốt thép, ván khuôn, đổ bê tông, căng cáp, bơm vữa ống luồn cáp, bảo dưỡng ở cả hai dầm trên đều đạt chất lượng yêu cầu; cường độ nén bình quân của dầm số 9 và số 10 đều vượt chuẩn thiết kế.
Theo Bộ GTVT, nguyên nhân xảy ra tai nạn được xác định do trong quá trình nâng hạ dầm số 9 xuống gối cao su, dầm gánh đã bị dịch chuyển, điểm tì giữa dầm gánh và dầm số 9 bị lệch ra ngoài trục dầm bê tông cốt thép dự ứng lực 42 m. Trong khi đó, cả hai công nhân Trần Văn Thảnh (đã chết) và Trần Đình Trung đều không quan sát được hiện tượng trên nên mới xảy ra tai nạn.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa có quyết định giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2009 cho các bộ và địa phương. Theo đó, tổng nguồn trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2009 là 36.000 tỷ đồng.
Bố trí cụ thể theo ngành và lĩnh vực như sau: ngành GT-VT 21.000 tỷ đồng; ngành thủy lợi 8.000 tỷ đồng; các dự án di dân tái định cư thủy điện Sơn La 1.000 tỷ đồng; các dự án bệnh viện đa khoa tuyến huyện và các bệnh viện tuyến tỉnh 3.000 tỷ đồng; chương trình kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên 3.000 tỷ đồng.
3. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: Ngày 18/3, lần đầu tiên những đóng góp của 10 cá nhân có thành tích xuất sắc công cuộc đấu tranh với "quốc nạn" tham nhũng sẽ được ghi nhận bằng lễ tuyên dương tại Văn phòng trung ương về phòng chống tham nhũng.
Hội nghị sẽ là nơi gặp mặt, chia sẻ kinh nghiệm, khó khăn giữa các cá nhân có thành tích phòng chống tham nhũng trên địa bàn Hà Nội. Mô hình này sau đó sẽ được nhân rộng trên quy mô cả nước.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Doanh nghiệp chưa mặn góp ý xây dựng luật". Bài báo phản ánh: Sáng qua (17-3), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức hội thảo Nâng cao năng lực doanh nghiệp, hiệp hội trong công tác tham vấn, hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật kinh doanh.
Nguyên nhân 1: Ý kiến không được coi trọng
Hiện nay, theo quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản thì các cơ quan soạn thảo văn bản phải công khai dự thảo cho người dân, doanh nghiệp được góp ý kiến. Ngoài ra, quy định bắt buộc cơ quan soạn thảo phải giải trình rõ việc tiếp thu ý kiến nào, không tiếp thu ý kiến nào, tại sao... và đăng công khai giải trình này trên trang thông tin điện tử của Chính phủ. Việc này nhằm đảm bảo các cơ quan này ghi nhận ý kiến của doanh nghiệp một cách nghiêm túc chứ không phải “nghe cho có”!
Nhưng theo ông Trần Hữu Huỳnh - Trưởng ban Pháp chế VCCI, mặc dù công tác xây dựng pháp luật ngày càng tiến bộ, công khai, minh bạch, hiệu quả vẫn chưa cao một phần do quy định còn thiếu sót, một phần do doanh nghiệp chưa chủ động, quyết liệt. Cụ thể là có doanh nghiệp không thấy ý kiến của mình được tiếp thu, cũng không rõ vì sao bị loại bỏ nên không thèm góp ý nữa.
Nguyên nhân 2: Có cách “giải quyết” khác
“Một lý do khác là doanh nghiệp nghĩ rằng có thể giải quyết việc riêng của mình bằng nhiều cách nên chưa mặn mà với góp ý xây dựng pháp luật” - ông Huỳnh cho biết.
Hiệu quả góp ý xây dựng pháp luật không cao còn do cách tổ chức của ban soạn thảo. Luật sư Phan Thông Anh - Giám đốc Công ty Luật hợp danh Việt Nam cho rằng việc tổ chức lấy ý kiến còn hình thức, nhất là các hội thảo thông thường được tổ chức trong một buổi và mất quá nhiều thời gian để trình bày dự thảo, tóm tắt một vài ý kiến đóng góp trước đó, gợi ý một số nội dung cần tập trung và... nghỉ giải lao. Cuối cùng chỉ còn khoảng hai đến hai giờ rưỡi cho các đại biểu góp ý. Lẽ ra nên gửi bản dự thảo trước ngày tổ chức để doanh nghiệp còn xem và chuẩn bị ý kiến đóng góp.
Nguyên nhân 3: Chưa biết hợp tác
Tuy nhiên, cũng có những cuộc hội thảo lấy ý kiến rất nghiêm túc nhưng chỉ nhận được vài ba ý kiến góp ý mà thôi. Thậm chí nhiều buổi góp ý dự thảo hoặc đối thoại để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhiều doanh nghiệp lại chỉ xoáy vào chuyện than thiếu tiền và đề nghị giảm thuế.
Bên lề hội thảo, một luật sư cho rằng doanh nghiệp chưa quyết liệt và cũng chưa biết tận dụng cơ hội góp ý. Nhiều khi thấy quy định, thủ tục bất lợi nhưng chỉ góp ý chung chung là quy định vậy thì gây khó khăn cho doanh nghiệp, nên bỏ quy định đó, thủ tục đó đi. Những góp ý như vậy thường sẽ bị phớt lờ vì cơ quan soạn thảo sẽ giải trình với Chính phủ rằng bỏ thủ tục đó thì làm sao quản lý được. Luật sư này cho rằng khi muốn bỏ một quy định, doanh nghiệp phải bàn với nhau trước để tập trung ý kiến, đưa ra dẫn chứng và số liệu thực tế về thiệt hại của doanh nghiệp, đánh giá tác động khi cơ quan quản lý không chịu bỏ quy định đó, thậm chí có thể hợp nhau lại nghiên cứu ra một phương án khác đỡ bất lợi hơn cho doanh nghiệp. Có như vậy thì ý kiến góp ý mới nặng ký và thuyết phục được. Để làm được như vậy, doanh nghiệp sẽ mất công hơn nhưng hiệu quả ngay từ đầu, vẫn còn hơn là đợi đến khi văn bản được ban hành, đi vào thực tế, gây khó khăn, thiệt hại vài ba năm rồi mới bắt đầu la làng để được chỉnh sửa.
Báo cũng có bài "Tham vấn để dân khỏi “té ngửa” vì luật". Bài báo phản ánh: Làm sao để việc tham vấn ý kiến người dân hiệu quả, giúp việc ban hành các chủ trương, chính sách nhận được sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân? Các chuyên gia luật trong và ngoài nước đã bàn luận sôi nổi để tìm câu trả lời cho câu hỏi này trong buổi tọa đàm “Ý nghĩa của việc tham vấn công chúng trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật” do Báo Sài Gòn Giải Phóng tổ chức vào chiều 16-3.
Luật sư Phan Cẩm Tú, cán bộ dự án Star Việt Nam, cho biết ở Việt Nam, việc tham vấn công chúng đã thực hiện với khá nhiều hình thức: gửi dự thảo lấy ý kiến, hội thảo, góp ý trên website... Tuy nhiên, thực tế vẫn còn tồn tại tình trạng nhiều văn bản khi ban hành ra khiến nhiều người té ngửa vì sao lại có văn bản này. Vẫn còn nhiều người phàn nàn việc các ý kiến góp ý cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) không được tiếp thu và không biết đi đâu về đâu. “Chiến lược giáo dục vừa qua, nhiều chuyên gia góp ý đến 14 lần nhưng đến nay vẫn không thay đổi bao nhiêu. Hay như Nghị quyết 32/2007 về hạn chế xe ba, bốn bánh tự chế - một vấn đề hết sức quan trọng, đụng chạm đến nồi cơm của không ít người dân, thế nhưng chẳng thấy lấy ý kiến gì. Đùng một cái ban hành, bắt dân thực hiện. Hệ quả là TP.HCM cũng như nhiều địa phương khác loay hoay, phải kéo dài thêm một năm nữa nhưng cũng không rõ có thực hiện được không...” - ông Lê Hiếu Đằng, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ TP, dẫn chứng.
Bà Ung Thị Xuân Hương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp, đưa ra một thực tế đáng buồn: Quyết định 17 về trình tự thủ tục ban hành VBQPPL của UBND TP từ đầu năm 2007 đã bị bỏ quên. “Quyết định này yêu cầu các sở, ngành phải đăng các dự thảo văn bản lên website của đơn vị mình để lấy ý kiến dân nhưng cho đến nay, hầu như chưa có một sở nào thực hiện” - bà Hương nói.
Theo ông Đằng, báo chí chính là một kênh tham vấn công chúng rất hiệu quả. Vừa qua, mặt trận đã phối hợp với báo chí để phản biện lại nhiều chính sách, chủ trương của TP, điển hình như việc cổ phần hóa Bệnh viện Bình Dân bị ém thông tin để “bán lúa non”. Báo chí phát hiện, Mặt trận phản biện việc này mới không xảy ra (TP đã ngưng việc cổ phần hóa bệnh viện này - PV). “Tuy nhiên, theo tôi điều quan trọng hiện nay là thiếu chế tài nghiêm khắc để xử lý những người có trách nhiệm trong ban hành VBQPPL. Nhiều văn bản ban hành ra ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân và cũng gây thiệt hại cho cơ quan thực hiện nhưng chẳng thấy ai bị sao cả” - ông Đằng nói.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu cũng đưa ra nhiều dẫn chứng về thực trạng luật nằm chờ hướng dẫn, các cơ quan hướng dẫn có chậm trễ cũng chẳng bị làm sao. Nhiều văn bản luật chồng chéo, đá nhau, gây khó cho cả người dân và nhà nước. Cụ thể như Bộ luật Dân sự 2005 cho phép một tài sản được thế chấp nhiều nơi nhưng Điều 114 Luật Nhà ở lại quy định chỉ được thế chấp một nơi. Hay như Bộ luật Lao động sửa đổi 2002 quy định sau 30 ngày kể từ ngày báo cáo, người lao động có quyền quyết định chấm dứt hợp đồng lao động thì Nghị định 33/2003 hướng dẫn thi hành lại quy định 20 ngày,...
“Tham vấn công chúng sẽ tạo điều kiện cho việc phát hiện và ngăn chặn từ trong trứng nước việc ban hành luật để phục vụ cho cục bộ một ngành nghề nào đó. Ngoài ra cũng giúp tránh được tình trạng các văn bản luật đá nhau, chồng chéo như hiện nay” - ông Hậu nhấn mạnh.
Ông Michael McNamer, cố vấn cao cấp, nguyên Giám đốc đào tạo Cục Thẩm định văn bản bang California Hoa Kỳ, đưa ra một thông điệp ngắn gọn: “Many eyes see more. Meny minds know more” (càng nhiều người nhìn, càng nhiều kiến thức). “Giống như nhìn một con voi, mỗi người ở mỗi góc độ khác nhau sẽ có nhìn nhận khác nhau. Nếu thu thập nhiều góc nhìn thì sẽ ra hình ảnh một con voi hoàn thiện. Còn chỉ một, hai góc nhìn của vài cá nhân thì không thể nào bao quát hết được. Hãy hình dung VBQPPL giống như một con voi, càng có nhiều người góp ý thì thông tin càng nhiều để có cái nhìn toàn diện hơn” - ông McNamer ví von.
Tuy nhiên, bà Hương lại tỏ ra băn khoăn: “Thường những người ít bị ảnh hưởng lợi ích thì họ sẽ có sự góp ý khách quan, còn những đối tượng bị ảnh hưởng dĩ nhiên sẽ góp ý theo hướng bảo vệ lợi ích của mình. Một trong những cái khó hiện nay là làm sao để lấy được nhiều ý kiến góp ý khi thực tế có rất ít ý kiến góp ý gửi lại hoặc chỉ góp ý những gì liên quan đến họ...”. “Điều quan trọng trong tham vấn công chúng chính là sự công khai và có phản hồi. Việc này sẽ giúp người góp ý hiểu rằng ý kiến của họ được trân trọng và tích cực tham gia” - ông McNamer đúc kết.
2. Báo Sài Gòn giải phóng đưa tin: Ngày 17-3, Bộ Tư pháp đã tổ chức lễ ra mắt cơ quan đại diện của bộ tại TPHCM. Cơ quan đại diện đặt trụ sở tại 30 Trần Cao Vân, quận 1 TPHCM, có 4 tổ chức trực thuộc gồm văn phòng, phòng công tác thi hành án dân sự, phòng công tác hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp, phòng công tác tư pháp khác.
3. Báo Công an nhân dân có bài "Thi hành án dễ dàng phụ thuộc vào... bản án". Bài báo phản ánh: Để thực hiện Pháp lệnh THADS 2004, các cơ quan chức năng đã ban hành khoảng 40 văn bản hướng dẫn. Nhưng suốt những năm qua, khối lượng văn bản đồ sộ vẫn không khiến "kho" vụ việc tồn đọng tới con số hàng chục vạn đó nhúc nhích.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó trớ trêu nhất là vô số những bản án của tòa đã "bó tay" cơ quan THADS, nhất là những phán quyết án về mặt dân sự trong những bản án hình sự liên quan đến các tội phạm ma túy, cướp, trộm cắp... Số liệu của cơ quan quản lý công tác THADS cho biết, án dân sự trong hình sự chiếm tới 47% tổng số lượng án, trong đó có tới 65,3% không có điều kiện thi hành. Thực tế đã có rất nhiều vụ án, án tuyên xong không thể thi hành do người phải thi hành án không có tài sản, hoặc do số tiền phạt quá lớn mà bị cáo có muốn nộp cũng đành chịu. Có những vụ án đã có bản án từ hàng chục năm nay nhưng vẫn không thể thi hành và hàng năm lại đành phải thống kê vào dạng các vụ việc tồn đọng.
Một ví dụ rất điển hình là Bản án số 129/HSPT (ngày 05/4/1995) của Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng, xét xử về việc buôn lậu, đã tuyên: Tịch thu chiếc thuyền máy mang biển số BĐ 0234-TS của ông Nguyễn Đua (trú tại: Tổ 25, khu vực 5, phường Hải Cảng, Quy Nhơn, Bình Định) để sung vào công quỹ Nhà nước. Song vấn đề là chiếc thuyền máy - đối tượng để THA - đã được ông Đua bán cho người khác (không xác định được địa chỉ) trước khi có bản án của tòa.
Ở vụ việc này, mặc dù trước đó cơ quan điều tra đã lập biên bản thể hiện rõ chiếc thuyền đã không còn, nhưng toà vẫn tuyên "tịch thu chiếc thuyền máy" mà không quan tâm xem đối tượng để thi hành án có tồn tại hay không. Vì thế, đến nay, sau hơn 13 năm có hiệu lực, bản án phúc thẩm vẫn treo ở đó, vì cơ quan THADS đã không thể tịch thu được chiếc thuyền máy mang biển số BĐ 0234-TS từng thuộc sở hữu của ông Đua. Theo phân tích của một cán bộ của Cục THADS, về mặt pháp lý, cơ quan THADS phải tổ chức thi hành án theo nội dung bản án tòa án đã tuyên. Tuy nhiên, nếu tổ chức thi hành án theo bản án thì không thể được, vì thực tế hiện nay chiếc thuyền không còn tồn tại. Còn nếu ra quyết định đình chỉ thi hành án thì không có căn cứ pháp lý.
Cũng có những trường hợp, tòa tuyên bị cáo nộp phạt số tiền hàng trăm triệu đồng, thậm chí tiền tỷ trong khi thực tế bị cáo không thể có tiền để nộp. Điển hình là những vụ án liên quan đến ma túy, hầu như các bị cáo đều không có tài sản đáng giá, vậy mà tòa vẫn tuyên phạt hàng chục triệu đồng mỗi bị cáo... khiến cơ quan THADS chỉ biết nhận bản án rồi để đó. Đấy là chưa kể đến thực tế, do vụ án được xét xử nhiều lần, rồi giám đốc thẩm, tái thẩm, thậm chí kéo dài cả chục năm trời. Trong thời gian đó, tài sản là đối tượng để thi hành án có biến động, không còn nguyên trạng. Thậm chí như vụ thi hành án ở 19A Quán Thánh (Hà Nội), khi tòa tuyên một bên phải trả nhà, một bên trả lại tiền thì nhà lúc đó chỉ trị giá 300 triệu đồng, nhưng vì nhiều lý do nhùng nhằng cả chục năm chưa thi hành xong thì giá trị nhà đã lên tới chục tỉ đồng. Vậy nên vụ việc này đến nay đương sự vẫn chưa thôi gửi đơn kêu khắp nơi. Và thế là án tuyên, có hiệu lực rồi... để đấy, còn cơ quan THADS năm này qua năm khác tiếp tục báo cáo "án tồn đọng do không có điều kiện thi hành".
Hàng năm, Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ và Chính phủ lại báo cáo Quốc hội về công tác THADS, trong đó, bên cạnh thống kê tỉ lệ thi hành xong đối với những án có điều kiện thi hành, luôn có con số về án không có điều kiện thi hành. Điều này phản ánh thực tế là luôn luôn xuất hiện các bản án không có điều kiện thi hành, do nhiều nguyên nhân, nhưng nổi bật nhất vẫn là do án tuyên bất khả thi.
Còn nhớ, trước đây, trong quá trình xây dựng Luật THADS, cơ quan soạn thảo dự án Luật đã đưa ra phương án giao cho tòa ra luôn quyết định thi hành án, nhằm gắn kết giữa công tác xét xử và công tác thi hành án, tránh việc sau khi ra bản án là coi như toà hết trách nhiệm, còn việc thi hành các phán quyết đó là nhiệm vụ của cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, cuối cùng thì phương án này không được chấp nhận với nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, dù có được quy định gắn kết trách nhiệm với công tác THADS hay không thì điều quan trọng mà nhiều người đã nhận ra là cơ quan xét xử có trách nhiệm đến cùng đối với bản án, quyết định của mình, để phán quyết được tuân thủ triệt để, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời không làm khó cho cơ quan THADS. Vậy nhưng, trên thực tế thời gian qua dường như điều này chưa được ngành Tòa án quan tâm.
Xin dẫn ra một số vụ việc đang chờ ngành Tòa án sớm vào cuộc giải quyết. Đó là vụ án tranh chấp căn nhà 60A Lê Hồng Phong, TP Vũng Tàu - một vụ việc có hai bản án, quyết định cùng của TAND Tối cao, cùng có hiệu lực pháp luật, lại có nội dung trái ngược nhau khiến việc tổ chức thi hành án không có cơ sở để thực hiện. Quyết định tái thẩm số 38 ngày 23/11/2004 của Tòa Hình sự TAND Tối cao tuyên: Ngân hàng Ngoại thương Chi nhánh TP HCM phải giao lại toàn bộ giấy tờ, đồng thời gia đình bà Tuội có toàn quyền sở hữu căn nhà 60A Lê Hồng Phong, phường 8, TP Vũng Tàu; còn Bản án phúc thẩm số 1958 ngày 19/12/2006 của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao lại tuyên khác: Công nhận quyền sở hữu tài sản của ông Tuân đối với căn nhà 60A Lê Hồng Phong, phường 8, TP Vũng Tàu. Như vậy, gia đình bà Tuội phải giao trả căn nhà trên cho ông Tuân.
Khi chúng tôi tìm hiểu vụ việc này, bà Vũ Thị Hằng, Trưởng phòng Nghiệp vụ 1 Cục THADS cho biết, ngày 5/6/2008 Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã có cuộc họp cùng Bộ Tư pháp, TAND Tối cao và giao TAND Tối cao xem xét lại các bản án, quyết định này để có cơ sở giải quyết, tuy nhiên đến nay đề nghị trên vẫn chưa được xem xét.Cũng có bản án chỉ tuyên thiếu "một li" đã khiến công tác THADS gặp không ít khốn khó. Như việc thi hành Bản án hình sự phúc thẩm 767 ngày 9/5/2001 của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM liên quan đến giải quyết đơn đề nghị của ông Nguyễn Văn Thống và ông Lương Mạnh Hải. Bản án có hiệu lực pháp luật, THADS TP HCM ra quyết định thi hành án và tiến hành thu của phía ông Thống 105 cây vàng và của ông Hải 8 cây vàng theo đúng nội dung án tuyên. Tuy nhiên, sau khi nộp đủ số vàng theo quyết định của bản án các đương sự lại không được nhận lại phần đất của mình. Lý do chính là bản án không tuyên rằng UBND quận Thủ Đức - cơ quan hiện đang quản lý phần đất này phải giao trả đất cho đương sự và vì thế chính quyền quận Thủ Đức đã từ chối đề nghị giao đất. Hiện Cục THADS đang có kiến nghị TAND Tối cao xem xét lại bản án để giải quyết dứt điểm vụ việc, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được hồi âm...
Từ những ví dụ nêu trên cho thấy, hiệu quả công tác THADS phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có tính khả thi của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án. Các bản án, quyết định của tòa án thậm chí đúng pháp luật, nhưng án văn không đầy đủ hoặc không phù hợp với thực tiễn thì thi hành án cũng đành bó tay.
4. Báo Tia sáng trên mục Diễn đàn có bài Nhìn nhận về Dự luật tiếp cận thông tin. Bài báo phản ánh: “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” là một chủ trương thường được nhắc tới trong nhiều văn kiện chính trị bàn về dân quyền ở Việt Nam. Để giúp người dân biết chính quyền đã và đang làm gì, một đạo luật về tự do thông tin đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo. Người ta đã cho dịch và xuất bản các văn kiện pháp lý quốc tế và các đạo luật về tự do thông tin từ nhiều quốc gia trên thế giới, bước đầu xây dựng được một bản đề cương với 32 điều làm tư liệu thảo luận về dự luật này. Bài viết dưới đây góp phần nhìn nhận về nhu cầu, giới hạn và những tác động khả dĩ có được của dự luật này từ góc độ bảo vệ dân quyền.
Một đạo luật cần cho người dân, báo chí và chính quyền
Báo giới Việt Nam thường ráng né nhiều vấn đề được cho là nhạy cảm, song trên thực tế những vấn đề đó nếu được bàn luận tự do chưa chắc đã được số đông người dân quan tâm. Bình dân quan tâm đến việc an sinh thường ngày. Công việc, thu nhập, học hành, sức khoẻ và mọi sự tiện lợi trong giao lưu xã hội là những ưu tiên hàng đầu. Trong giao tiếp với chính quyền, người ta mong được đối xử công bằng và rõ ràng. Sự bất bình của dân chúng thường khởi nguồn từ những đối xử của chính quyền mà họ cảm thấy bất công. Thu hồi và sử dụng đất không đúng mục đích, đền bù không thoả đáng cho đất bị thu hồi, không được tạo việc làm và cơ hội chuyển nghề, sự bất lực của chính quyền trước ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và các bất an khác trong xã hội… thường là những mồi lửa tạo nên bất bình. Tích tụ lâu ngày, mồi lửa nhỏ cũng tạo nên đám cháy. Động loạn lớn đôi khi có nguyên căn từ vô cảm của chính quyền trước những lo toan nho nhỏ của người dân.
Tự do thông tin tốt cho người dân, báo giới và chính quyền: Một đạo luật bảo đảm quyền tự do thông tin của người dân nếu được ban hành sẽ giúp báo giới tự tin hơn khi khai thác quyền được biết, quyền được nói của người dân. Có biết, có dám tranh luận, rồi một ngày người dân mới học cách tập hợp lực lượng để phản biện lại, một cách hoà bình và văn minh, các chính sách của chính quyền khi cần thiết. Đạo luật này cũng giúp quan chức hành chính tự tin hơn khi tiết lộ thông tin cho dân chúng mà không sợ vi phạm các nghĩa vụ bảo mật. Thêm nữa, có được sự hiểu biết và thông cảm từ phía người dân các chính sách của Nhà nước cũng dễ thực hiện hơn. Tăng tự do thông tin cho người dân cũng nghĩa là tăng sức đề kháng, tăng cường ổn định, làm trong sạch, giúp bảo vệ chính quyền.
Tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin và Luật báo chí
Từ đưa tin tới tự do khám phá sự thật: Được hậu thuẫn từ quyền tự do thông tin của người dân, có thể trên thực tế, báo chí sẽ có những lợi ích, động cơ, tính chuyên nghiệp, bộ máy và năng lực để “thừa ủy quyền” của người dân mà truy tìm thông tin, khám phá ra những sự thật mà cơ quan Nhà nước có thể chưa muốn công bố cho công chúng (trừ những thông tin cần bảo mật vì lợi ích quốc gia). Không chỉ ở vị trí thụ động, phát ngôn cho các cơ quan của Đảng và cơ quan hành chính, dựa trên luật về tự do thông tin, báo chí chuyển sang một vị thế chủ động hơn, khai thác, điều tra, truy đuổi các thông tin đáng ra cơ quan Nhà nước phải công bố. Triết lý này phải được ghi nhận bởi luật báo chí, nói cách khác, ban hành luật về tự do thông tin sẽ làm một cú hích để tu chỉnh luật báo chí nhằm xác định trách nhiệm xã hội của báo chí trước nhân dân và dân tộc.
Chủ đề nhạy cảm: Ngoại lệ đối với tự do thông tin của người dân cũng nên là ngoại lệ đối với tự do báo chí. Ngoài bí mật Nhà nước, bí mật của doanh nghiệp, quyền riêng tư của người dân cũng nên là một chủ đề cần thận trọng khi công bố trên báo chí. Những nguyên tắc này cần được ấn định rõ ràng. Cần tìm cách giới hạn quyền lực của cơ quan Nhà nước trong quản lý báo chí, không cho họ tự tiện tuyên bố những vấn đề nhạy cảm cấm đưa tin dựa theo quan niệm của một số quan chức có quyền. Ở những vấn đề này báo chí cũng phải có tố quyền, phải được tranh luận vì sao một chủ đề nhất định lại được xem là nhạy cảm, và vì sao họ không được phép đưa tin. Một cơ chế tranh luận, xét xử bảo mật, hoặc một phiên điều trần không công khai trước các ủy ban của cơ quan dân cử có thể giúp thẩm định và giới hạn những vấn đề được xem là nhạy cảm vào những tiêu chí khách quan hơn.
Tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin và Pháp lệnh về bí mật Nhà nước
Bí mật Nhà nước? Trong cơn khát, luật về tự do thông tin ví như một bầu nước, song Pháp lệnh về bí mật Nhà nước năm 2000 lại chính là cái nút thắt chặt lấy bầu nước ấy. Một bản kết luận nước tương hay sữa kém phẩm của một sở y tế địa phương, bản danh mục điện thoại của các đại biểu Quốc hội có là bí mật Nhà nước, nếu phóng viên tiệm cận và công bố những tin ấy, liệu có được xem là vi phạm các quy định về bí mật Nhà nước hay không? Pháp lệnh số 30/2000/PL-UBTVQH10 về bí mật Nhà nước định nghĩa rất rộng, cho rằng bí mật là tất cả những gì có trong danh sách được xem là bí mật, danh sách này do người đứng đầu cơ quan tổ chức Nhà nước hoặc người được ủy quyền đề nghị và tuỳ theo loại tối mật, tuyệt mật hoặc mật mà do Thủ tướng hoặc Bộ trưởng Bộ Công an quyết định. Tóm lại bí mật là những gì cơ quan hành chính Nhà nước trình và được Bộ Công an thẩm định đồng ý cho là mật.
Thẩm định danh mục bí mật: Theo Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ban hành ngày 28/03/2002 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về bí mật Nhà nước năm 2000, trên thực tế các thông tin được xem là bí mật Nhà nước thực ra rộng hơn cả khái niệm thông tin Nhà nước. Bởi lẽ, người đứng đầu các tổ chức chính trị, chính trị xã hội cũng có thể lập danh sách các thông tin được xem là bí mật Nhà nước. Điều này áp dụng đối với các thông tin của Đảng, của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các thông tin được cho là bí mật Nhà nước do các tổ chức chính trị xã hội khác đề xuất. Nghị định tuy có nhắc đến việc thẩm định các danh sách đề xuất này, song không cụ thể hoá việc thẩm định được diễn ra như thế nào, với những tiêu chí gì. Cũng như vậy bản thân các danh sách những gì được xem là mật này cũng có thể được công bố hoặc không, tuỳ thuộc vào Bộ Công an xem xét quyết định. Trên trang thông tin điện tử của Chính phủ người ta có thể theo dõi vô số các danh sách bí mật đã được công bố, từ danh sách bí mật của Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, cho tới bí mật của ngành xây dựng, ngành công thương.
Rà soát lại pháp luật về bí mật Nhà nước: Điểm lại thông tin báo chí Việt Nam trong các năm gần đây, xuất hiện nhiều vụ việc có thể liên quan đến vấn đề bảo vệ bí mật Nhà nước có thể cần được thảo luận thêm, ví dụ về vụ việc phóng viên Lan Anh của báo Tuổi trẻ bị khởi tố liên quan đến tài liệu được cho là bí mật của Bộ Y tế. Theo pháp luật hiện hành, một thông tin nằm trong danh sách bí mật do Bộ Y tế đề xuất đã được Bộ Công an quyết định, đã được đóng dấu mật, thì được xem là bí mật. Nếu không giải thích được rành rọt cách thức lấy được thông tin đó, cô phóng viên gặp phải rủi ro có thể được xem là vi phạm bí mật Nhà nước. Tương tự như vậy, việc đưa tin về các đề án xây dựng quy hoạch vùng có thể vi phạm bí mật thuộc phạm vi do Bộ Xây dựng phụ trách, xem § 1 Quyết định số 2039/2008/QĐ-BCA (A11) ngày 03/12/2008. Đáng lưu ý rằng quy hoạch là một thông tin tối nhạy cảm trong lĩnh vực đất đai, ảnh hưởng đáng kể đến dân cư. Cũng như vậy, nếu quá say sưa đưa tin về vụ khai thác Bauxite ở Đắc-Nông (Tây Nguyên), báo chí có thể gặp phải nguy cơ vi phạm những thông tin được xem là tuyệt mật liên quan đến chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về khai thác khoáng sản, xem § 2.4 Quyết định số 106/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 21/07/2008 về danh sách thông tin độ tối mật, tuyệt mật trong ngành Công thương.
Phạm vi và quy trình thẩm định danh sách bí mật: Cuộc thảo luận về luật về tự do thông tin không trực tiếp thay đổi được các quy định về bảo mật, song như một mắt xích hướng tới sự minh bạch hơn trong quản trị quốc gia, đạo luật này hối thúc việc sửa Pháp lệnh về bí mật Nhà nước, nhất là xác định những nội dung nào được xem là bí mật và từng bước hướng tới một quy trình thẩm định, tương đối khách quan và có thể giám sát được, các tiêu chí đánh giá một thông tin có cần được xem là bí mật Nhà nước hay không.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 18/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.