Điểm báo sáng ngày 17 tháng 3 năm 2009

17/03/2009
Trong buổi sáng ngày 17/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Cách đây ba năm, theo yêu cầu của cơ quan tài phán, Hãng hàng không Việt Nam (VNA) đã phải đặt cọc 5,2 triệu euro (hơn 100 tỷ đồng Việt Nam theo tỷ giá thời điểm hiện nay) tại một cơ quan thi hành án Pháp. Tuy nhiên, trong buổi họp báo chiều 16-3, Tổng Giám đốc VNA - ông Phạm Ngọc Minh cho biết VNA có thể lấy lại được số tiền này vì có khả năng VNA sẽ không thua kiện.
Các luật sư nước ngoài được VNA thuê để theo đuổi vụ kiện đã phát hiện ra một chứng cứ: Liberati và luật sư của Falcomar đã thông đồng với nhau xây dựng kịch bản kê khống mức phí tư vấn pháp lý lên con số hàng triệu euro. Sau đó, Falcomar sẽ tự giải thể để đẩy toàn bộ trách nhiệm pháp lý cho bị đơn thứ hai. Những chứng cứ này được thể hiện trong hai bức thư mà hai luật sư trên gửi cho nhau vào năm 1996. Đúng theo kịch bản, Falcomar đã tự giải thể vào năm 1998 và rũ bỏ được toàn bộ trách nhiệm liên quan VNA, cuối cùng chỉ có VNA bị kiện.
Phát hiện ra chứng cứ mới này, VNA đã đệ đơn yêu cầu tòa án hủy bản án của tòa sơ thẩm. Suốt từ đó đến nay, tòa sơ thẩm và phúc thẩm Roma đã qua 12 phiên xem xét yêu cầu của VNA mà vẫn chưa đi đến phán quyết cuối cùng. Kết quả phiên xem xét lần gần đây nhất của Tòa phúc thẩm Roma họp vào ngày 21-1 đã không chấp nhận đơn kháng án của VNA. Tuy nhiên, theo ông Minh, phiên xem xét cuối cùng của tòa vào ngày 2-4 tới đây mới là phiên quan trọng nhất vì VNA đã đưa ra những chứng cứ quan trọng này lên tòa. Rất có thể tòa sẽ chấp nhận kháng án của VNA.
Tổng giám đốc VNA cho biết sau khi VNA bị vướng vào vụ án “trời ơi” này, Chính phủ đã cho thành lập một tổ tư vấn đặc biệt để tư vấn các vấn đề về pháp lý trong vụ việc cho VNA. VNA cũng đã thuê luật sư tại Ý và Pháp để bảo vệ quyền lợi. Ông Minh cho biết theo luật pháp Ý, nếu có sự mặc cả thỏa thuận ngầm giữa hai bên tham gia tố tụng nhằm gây thiệt hại cho bên thứ ba (là VNA) thì hành vi này sẽ cấu thành tội phạm hình sự. Tổ tư vấn pháp lý cho VNA hiện đang xem xét khả năng có thể yêu cầu cơ quan điều tra, công tố xem xét trách nhiệm hình sự của những đối tượng liên quan.
Theo PGS-TS Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng Trường đại học Luật TP.HCM, chuyên gia về tư pháp quốc tế cho biết điểm quan trọng nhất là VNA chứng minh được việc mình đã bị các bên nước ngoài “cho vào bẫy”. Về vấn đề các cơ quan tố tụng Việt Nam có thể truy tố các đối tượng đã lừa dối VNA hay không, bà Quỳ khẳng định: “Điều đó là không thể mà thuộc thẩm quyền của các cơ quan bên nước sở tại”.
Báo cũng cho biết:Chiều qua (16-3), Cục Quản lý cạnh tranh cho biết đèn compact Việt Nam vừa bị kết luận là bán phá giá vào thị trường Ấn Độ cùng với đèn Trung Quốc và Sri Lanka. Tổng Vụ chống bán phá giá Ấn Độ đã ra kết luận doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá với biên độ 70%-85%, doanh nghiệp Trung Quốc phá giá với biên độ 1%-29%.
Trong giai đoạn 2006-2007, Việt Nam đã xuất vào Ấn Độ khoảng 5,4 triệu đèn compact, chỉ chiếm khoảng 4,5% tổng số đèn nhập khẩu của Ấn Độ trong khi Trung Quốc chiếm gần 88%. Khi vụ kiện được khởi động, doanh nghiệp Việt Nam không tham gia vụ việc nên biên độ phá giá nói trên được xác định dựa trên các thông tin bất lợi sẵn có. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam xuất đèn sang Ấn Độ có thể bị áp thuế tương ứng với biên độ phá giá.
Báo cũng phản ánh:Ngày 16-3, Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai đã họp với hội nông dân hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch và bốn xã có gần 4.000 hộ dân khiếu nại bị thiệt hại do Công ty Vedan xả thải gây ra để bàn các bước tiếp theo trong quá trình thương thảo với Vedan về hỗ trợ thiệt hại.
Theo đó, Hội Nông dân bốn xã Phước Thái, Long Phước, Long Thọ và Phước An phải hoàn chỉnh báo cáo gửi về Hội Nông dân tỉnh vào ngày 19-3, trong đó nêu danh sách số người có đơn khiếu nại đòi Vedan bồi thường thiệt hại (gồm ba nhóm đối tượng: nuôi trồng thủy hải sản; đăng đáy, te cào, lưới; bắt cua, tép, chem chép... trên sông (không đầu tư vốn)). Những người này phải được xác định danh tính, hộ, diện tích đất sản xuất, ao hồ nuôi thủy hải sản, máy móc, công cụ lao động... và thời điểm bị thiệt hại. Riêng xã Phước Thái ở sát Công ty Vedan cần phải xác định thêm các đối tượng bị mục, nát vật liệu, công trình xây dựng (như tôn, sắt...) và các đối tượng bị suy giảm sức khỏe do chất thải của Công ty Vedan gây ra.
Ông Trần Như Độ, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai, cho rằng các hộ dân cần đề nghị hỗ trợ thiệt hại trên cơ sở chấp nhận được để thuận lợi trong quá trình thương thảo với Vedan.
2. Báo Tiền phong có bài Giá bán lẻ xăng dầu đã có thể giảm thêm 500 đồng/lít. Bài báo phản ánh: Trong tuần qua, giá dầu DO trên thị trường thế giới đã giảm khoảng 6-7 USD, còn 48 USD/tấn. Với mức giá nhập khẩu hiện nay trừ đi thuế và các chi phí khác, theo trưởng phòng một công ty đầu mối nhập khẩu xăng dầu lớn, giá bán lẻ trong nước đã có thể giảm thêm 500 đồng/lít.
Thừa nhận giá nhập khẩu mặt hàng này có xu hướng giảm trong thời gian qua nhưng các đầu mối nhập khẩu lớn như Tổng công ty Xăng dầu VN (Petrolimex), hay Công ty TNHH một thành viên Dầu khí TP.HCM (Saigon Petro)... chưa đề xuất giảm giá với cơ quan quản lý nhà nước. Trong khi đó, giá nhập khẩu mặt hàng xăng cũng giảm mạnh trong hơn nửa tháng qua. Hiện giá xăng nhập khẩu còn dưới 50 USD/thùng, giảm xấp xỉ 10 USD so với nửa cuối tháng 2/2009, thời điểm các công ty trong nước đề xuất tăng giá bán lẻ mặt hàng này thêm 1.000đ/lít.
3. Báo Người lao động phản ánh: Hội thảo “Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025” đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ chức, ngày 16-3, tại Bắc Ninh. Ông Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uy ban Kiểm tra Trung ương, chủ trì hội thảo
Theo TTXVN, tại hội thảo, đối với vấn đề kiện toàn cơ quan Ủy ban Kiểm tra các cấp, hầu hết các đại biểu đều tán thành việc hợp nhất Thanh tra Nhà nước cùng cấp vào cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng để tăng thực quyền. Đối với vấn đề tăng thẩm quyền cho Ủy ban Kiểm tra các cấp, các đại biểu cho rằng: Trong quá trình kiểm tra, nếu đảng viên có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng, cản trở, gây khó khăn cho việc kiểm tra thì có quyền tạm đình chỉ chức vụ, đình chỉ công tác, đình chỉ sinh hoạt Đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy của cấp ủy viên; nghĩa là Ủy ban Kiểm tra có quyền kỷ luật cả về Đảng và chính quyền. Quy định giao Ủy ban Kiểm tra giám sát bố (mẹ), vợ (chồng), con của các ủy viên cùng cấp và thường trực cấp ủy cấp dưới trực tiếp; giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế của Nhà nước, đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp không phải là đảng viên lại ít được đại biểu tán thành do các vấn đề về số lượng và chất lượng cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát và một số vướng mắc khác.
Ông Nguyễn Văn Chi cho biết sẽ tập hợp, sửa đổi dự thảo cho phù hợp để trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương trong thời gian tới. 
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Lao động trên mục Bạn đọccó bài "Nơi sinh không thể là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú". Bài báo phản ánh: Trong giấy khai sinh có đủ các mục: Nơi sinh, quê quán và nơi đăng ký hộ khẩu thường trú. Ba mục đó rất rõ ràng. Quê tôi ở Cà Mau, năm 1954 ba tôi tập kết ra miền Bắc, tôi được sinh ra tại Hà Nội, sau năm 1975 gia đình tôi chuyển về sinh sống ở TPHCM.
Tôi được cơ quan biệt phái ra Hà Nội công tác thời gian dài, tôi đã sinh cháu tại Bệnh viện Phụ sản TƯ- Hà Nội. Như vậy, giấy khai sinh của con gái tôi ghi: Quê quán: Hà Nội (chồng tôi quê Hà Nội); nơi sinh: Bệnh viện Phụ sản TƯ- Hoàn Kiếm, Hà Nội; hộ khẩu thường trú tại 659/17/2 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận,TPHCM (con đăng ký theo hộ khẩu của mẹ). Khi con tôi làm hồ sơ thi đại học thì Bộ GDĐT lại buộc phải ghi nơi sinh rõ địa chỉ xã, huyện, tỉnh.
Trong trường hợp của con tôi thì giấy khai sinh ghi rất đúng nơi cháu đã sinh ra, không thể ghi địa chỉ cụ thể như hồ sơ dự thi đã yêu cầu. Theo hướng dẫn của ông Ngô Kim Khôi - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục- Bộ GDĐT thì trong hồ sơ dự thi ghi nơi sinh là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của bố hoặc mẹ. Rõ ràng trong trường hợp này, Bộ GDĐT đã gây phiền hà cho học sinh một yêu cầu không cần thiết, sai với mẫu đã quy định của giấy khai sinh đã được Nhà nước quy định.
Nơi sinh khác với nơi đăng ký hộ khẩu thường trú như tôi đã viện dẫn ở trên. Không ít học sinh đã khai đúng nơi sinh theo giấy khai sinh thì lại không đúng với quy định của Bộ GDĐT, rất phiền phức. Tôi đề nghị Bộ GDĐT cần xem xét lại quy định không đúng này.
2. Báo điện tử Vietnamnet có bài Văn bản quy phạm pháp luật sai, chưa ai bị xử lý. Bài báo phản ánh: Dự tọa đàm về ý nghĩa của tham vấn công chúng khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Báo Sài Gòn Giải Phóng tổ chức ngày 16/3, các đại biểu chỉ ra việc các cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra, thẩm định không phải chịu trách nhiệm gì khi có sai sót.
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp Nguyễn Thị Kim Thoa cho hay, theo quy định, cơ quan soạn thảo văn bản "có trách nhiệm tiếp thu ý kiến cũng như phản hồi ý kiến của người dân về các văn bản quy phạm pháp luật. Khi đưa vào quy định phải tạo cơ hội cho người dân tham gia vào quá trình thẩm định". “Có như vậy mới tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Đồng thời, tạo được tính minh bạch của cơ quan hành chính nhà nước, tính minh bạch của văn bản quy phạm pháp luật. Qua đó, đảm bảo sự nhất quán trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật”, bà Thoa nói.
Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Thị Sơn, Viện Khoa học pháp lý, dù đã có quy định về việc tham vấn công chúng trước mỗi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhưng hiện nay, phương pháp, điều kiện thực hiện chưa được tốt.
Đồng quan điểm trên, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM Ung Thị Xuân Hương khẳng định: “Việc tham vấn ý kiến của công chúng đã được luật quy định. Nhưng do cách tổ chức thực hiện vẫn đang còn nhiều vấn đề tồn tại”. Bà Hương nêu thực tế: “Trong quyết định của UBND TP.HCM cách đây 2 năm, các dự thảo phải được đưa lên trang web nhưng chưa có cơ quan nào thực hiện”.
Phó Chủ tịch UB Mặt trận Tổ quốc TP.HCM Lê Hiếu Đằng cũng phản ánh: "Chủ trương tham vấn đúng nhưng thực hiện thì… trong chừng mực". Ông Đằng cũng cho rằng để tạođiều kiện cho người dân tham vấn những chủ trương chính sách của Nhà nước, "báo chí hãy mạnh dạn hơn nữa trong vấn đề này”.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Trưởng Ban Tuyên truyền Hội Luật gia TP.HCM nêu nghịch lý: “Ở nước ta hiện nay, văn bản dưới luật hoặc văn bản hướng dẫn thi hành theo quy định của pháp luật có hiệu lực và giá trị pháp lý thấp nhưng lại được thực hiện nghiêm hơn, có giá trị thực tế cao hơn, mặc dù có những văn bản hướng dẫn nội dung còn trái với cả văn bản mà nó hướng dẫn”."Các văn bản quy phạm pháp luật để được ban hành đều trải qua thủ tục trình tự khắt khe từ thẩm định, đến thẩm tra của các cơ quan có thẩm quyền nhưng tình trạng sai sót vẫn diễn ra phổ biến, các cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra, thẩm định cũng không phải chịu trách nhiệm gì. Xử lý các văn bản sai chỉ bằng cách đính chính việc thi hành sửa đổi hoặc bãi bỏ văn bản đó", ông Hậu cho biết. 
Theo luật sư Michael Mcnamer, chuyên gia cao cấp về tham vấn công chúng, tham vấn công chúng rất quan trọng. "Trước khi đưa ra một văn bản, ban soạn thảo phải chuẩn bị hồ sơ và thông báo lấy ý kiến của dân. Phải đặt câu hỏi văn bản xây dựng nhằm mục đích gì, có cần thiết phải có một văn bản giải thích hay không?".
Các đại biểu thống nhất văn bản quy phạm pháp luật phải được công khai trên báo chí, trên mạng. Nhất thiết phải có sự tham vấn của công chúng.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Hà Nội: thu hồi văn bản về vận tải trái luật". Bài báo phản ánh: Ông Đỗ Xuân Hoa, Trưởng phòng Vận tải Cục Đường bộ, cho biết ngày 13-3, Cục đã có văn bản gửi các doanh nghiệp vận tải ở miền Trung, chỉ đạo các doanh nghiệp khi đăng ký khai thác tuyến không phải thực hiện theo Văn bản 89 của Sở GTVT Hà Nội. Ngoài ra, UBND TP Hà Nội cũng đã yêu cầu Sở GTVT thu hồi ngay văn bản trên vì ban hành trái luật.
Trước đó, Sở GTVT Hà Nội đã ban hành Văn bản 89 yêu cầu các doanh nghiệp vận tải từ các tỉnh, thành hoạt động trên địa bàn Hà Nội đăng ký kế hoạch khai thác trên các tuyến vận tải khách đến địa bàn. Sở cũng yêu cầu các đơn vị khai thác bến xe khách tại Hà Nội chỉ ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp khi đã có ý kiến bằng văn bản của cơ quan quản lý hai đầu tuyến. Nếu hết ngày 24-1 mà doanh nghiệp nào không đăng ký thì coi như không có nhu cầu tham gia khai thác tuyến. Trước yêu cầu “độc quyền” của Sở GTVT Hà Nội, nhiều địa phương, doanh nghiệp ở các tỉnh miền Trung đã làm đơn “kêu cứu” về Cục Đường bộ. Sau đó, Cục đã có văn bản kiến nghị Bộ GTVT đề nghị UBND TP Hà Nội chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thu hồi văn bản trên vì trái quy định và gây phiền hà cho doanh nghiệp.
4. Báo Công an nhân dân có bài "“Liệu pháp” nào cho hàng chục vạn án dân sự tồn?". Bài báo phản ánh: Bước sang năm 2009, "hành trang" lớn nhất của lực lượng THA cả nước là hơn 292.000 vụ việc tồn đọng. Con số không chỉ gây nhức nhối cho xã hội, mà đây càng là nỗi ám ảnh của những người tâm huyết đối với công tác này, đặc biệt là lực lượng làm công tác THADS khi mà Bộ Tư pháp đặt chỉ tiêu là phải giảm 10-15% án tồn trong năm 2009. Chỉ tiêu này là rất lớn nếu biết rằng trong nhiều năm trở lại đây lượng vụ việc tồn đọng hầu như vẫn chỉ dao động trong khoảng trên dưới 300.000 vụ, bất chấp mọi loại nỗ lực, quyết tâm. Tại hội nghị mới đây bàn về công tác THADS, lãnh đạo cơ quan THADS ở tỉnh Bến Tre đã khẳng định luôn là chỉ tiêu giảm án tồn trên sẽ bất khả thi đối với địa phương này. Phản ứng đó đã cho thấy phần nào sự bế tắc của công tác này hiện nay…
Có thể nói, THADS có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng, bởi bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Theo quy trình tố tụng, hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước… Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành".
Với tầm quan trọng như vậy của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về thi hành án dân sự, nhất là trong Nghị quyết số  48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng Nhà nước trước đây (nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội) đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và gần đây là Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Luật Thi hành án dân sự mới được ban hành cuối năm 2008, chưa có hiệu lực nên công tác THADS hiện nay vẫn phải tuân theo Pháp lệnh THADS năm 2004. Theo ông Nguyễn Thanh Thủy, Phó Cục trưởng Cục THADS (Bộ Tư pháp), kết quả triển khai thi hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đến nay cho thấy, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số tồn tại, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án.
Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản lý, mô hình tổ chức cơ quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc được giao. Quyền hạn của cơ quan thi hành án, của chấp hành viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa THADS với thi hành án phạt tù, đặc biệt là các vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại; chưa tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS…
Các hạn chế, bất cập này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng vẫn còn lớn (năm 2005 có 327.658 vụ việc tồn đọng chiếm 58,38%; năm 2006 có 331.092 vụ việc tồn đọng chiếm 54,99%; năm 2007 có 311.443 vụ việc tồn đọng chiếm 48,04%; năm 2008 có 313.428 vụ việc tồn đọng và tồn đọng sang năm 2009 là hơn 292.000 vụ việc), làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của tòa án chưa được bảo đảm, nhiều việc gây bức xúc trong xã hội.
Nhìn nhận một cách khách quan, trong hơn 300.000 vụ việc tồn đọng về THADS thì chủ yếu lại là những loại việc không có điều kiện thi hành, do vậy con số dù rất lớn nhưng về cơ bản vẫn là sự thống kê năm này qua năm khác về án tồn không có điều kiện thi hành, nhưng chưa có cơ chế xóa bỏ.
Luật THADS được kỳ vọng sẽ là cứu cánh cho vấn đề này, khi đưa ra quy định tại Điều 61: Miễn thi hành đối với khoản thu cho ngân sách Nhà nước có giá trị không quá 500.000 đồng mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá 5 năm, tính đến thời điểm Luật có hiệu lực mà người phải thi hành án không có điều kiện thi hành. Theo tính toán của Cục THADS thì quy định này khi chính thức có hiệu lực, được triển khai sẽ giúp giảm ngay được khoảng 1/3 lượng vụ việc đang tồn đọng (tương đương khoảng 10 vạn vụ việc) và sẽ giúp án tồn tiếp tục giảm đáng kể qua từng năm. Đây là điều đáng mừng khi đã có cơ chế giải quyết từng bước nhức nhối về lượng án tồn không có điều kiện thi hành. Tuy nhiên, theo những người trong ngành thì đó cũng chỉ là việc xóa đi những con số "chết". Còn gây nhức nhối hơn cả là các vụ việc tồn đọng dai dẳng, khó thi hành xuất phát từ ý thức chủ quan của các cơ quan hữu trách, trong đó có những vụ việc có điều kiện thi hành nhưng không thể thi hành, nhiều vụ phải qua nhiều cấp, nhiều cơ quan vào cuộc giải quyết trong nhiều năm, thậm chí hàng chục năm đến nay vẫn bế tắc, gây nhức nhối trong xã hội.Ở bài viết sau chúng tôi sẽ đề cập cụ thể thực trạng này.
5. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Hồ sơ bồi thường, hỗ trợ thiệt hại nhà đất : Phải ghi cả tên người sử dụng hợp pháp và người được ủy quyền. Bài báo phản ánh: Đó là hướng dẫn của Sở Tư pháp TP gửi UBND các quận-huyện và Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng (BBTGPMB) quận-huyện về việc lập hồ sơ bồi thường, hỗ trợ thiệt hại có liên quan đến người sử dụng đất hợp pháp và người được ủy quyền.
Trong một văn bản khác liên quan đến việc này, Sở Tư pháp cho rằng việc giải quyết vấn đề ủy quyền trong việc bồi thường, hỗ trợ TĐC là rất phức tạp. Trong thời gian qua, cách ghi hồ sơ bồi thường không thống nhất, nhiều trường hợp chưa đúng quy định của pháp luật và đang phát sinh nhiều tranh chấp. Riêng các trường hợp ủy quyền tại quận 2, nếu có vướng mắc, BBTGPMB quận 2 cần phân loại các dạng ủy quyền và căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ trong từng hồ sơ cụ thể để xem xét giải quyết đối với từng trường hợp cụ thể vì Sở Tư pháp không thể có một hướng dẫn chung cho tất cả các trường hợp.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 17/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm