Điểm tin báo chí sáng ngày 13 tháng 3 năm 2009

13/03/2009
Trong buổi sáng ngày 13/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 12-3, Bộ Ngoại giao Thái Lan ra thông báo cho biết, Hội nghị cấp cao ASEAN cùng các nước đối tác chủ chốt trong khu vực, dự kiến diễn ra vào tháng 4, sẽ được tổ chức tại thành phố biển Pát-tay-a thuộc tỉnh Chon-bu-ri, cách thủ đô Băng Cốc khoảng 100km về phía Nam.
Theo Bộ trưởng Ngoại giao Ca-xít Pi-rô-mi-a, việc tổ chức hội nghị tại Phu-kẹt gặp quá nhiều khó khăn về hậu cần do trùng với Tết cổ truyền của Thái Lan từ 13 đến 15-4. Báo "Bưu điện Băng Cốc" và một số nguồn tin khác cho rằng việc chuyển địa điểm tổ chức hội nghị sang Pát-tay-a là để bảo đảm an ninh cũng như các điều kiện hậu cần cho hội nghị.
Theo kế hoạch, các nhà lãnh đạo 10 nước ASEAN cùng lãnh đạo các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân sẽ nhóm họp từ 10 đến 12-4.
2. Báo Vietnamnet phản ánh: Cùng với phản đối Trung Quốc cho mở tour du lịch ra đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, hôm 12/3, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng phản đối Philippines vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa khi nước này xác định chủ quyền đối với các đảo thuộc quần đảo này. Hôm 10/3 vừa qua, Tổng thống Philippines Gloria Arroyo đã ký ban hành Luật đường cơ sở mới của nước này, trong đó quy thuộc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào lãnh thổ của Philippines. 
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng khẳng định:  "Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử về chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hành động của các bên liên quan ở khu vực này mà không có sự đồng ý của Việt Nam đều là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và không có giá trị pháp lý”.
Theo ông Lê Dũng, việc Tổng thống Gloria Arroyo ký ban hành Luật đường cơ sở mới của Philippines, trong đó quy thuộc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào lãnh thổ của mình, đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa, làm phức tạp thêm tình hình, không phù hợp với tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, đi ngược lại với xu thế hợp tác trong khu vực.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Khai nhận di sản: Phường phải xác nhận biên bản niêm yết". Bài báo phản ánh: Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 4-3 có đăng bài “Biết khai sai nhưng vẫn xác nhận” phản ánh một trường hợp công khai bỏ bớt số người được thừa kế theo pháp luật. Do Phòng công chứng số 1 TP.HCM không yêu cầu biên bản niêm yết việc khai nhận di sản phải được đại diện phường ký tên, đóng dấu nên một cá nhân đã ung dung khai nhận mình là con duy nhất để hưởng trọn di sản. Thật bất ngờ khi theo tìm hiểu của PV Báo Pháp Luật TP.HCM, thủ tục niêm yết văn bản khai nhận di sản tại phường, xã đang được nhiều cơ quan thực hiện theo kiểu mạnh ai nấy làm.
Theo ông Hoàng Xuân Hoan, Trưởng phòng Công chứng số 2 TP.HCM, do Luật Công chứng không quy định nên hiện phòng này vẫn tiếp tục thực hiện các thủ tục khai nhận và phân chia di sản theo Nghị định 75 ngày 8-12-2000 của Chính phủ và Thông tư 03 ngày 14-3-2001 của Bộ Tư pháp. Theo đó, việc niêm yết do cơ quan công chứng thực hiện tại trụ sở UBND cấp phường, nơi thường trú (hoặc tạm trú) trước đây của người để lại di sản. Cơ quan công chứng phải cử người trực tiếp niêm yết, có sự chứng kiến của đại diện UBND cấp phường.
Về thủ tục niêm yết, áp dụng theo Nghị định 58 ngày 24-8-2001 của Chính phủ (về quản lý và sử dụng con dấu), Phòng Công chứng số 2 yêu cầu lãnh đạo UBND phường ký tên xác nhận và đóng dấu vào biên bản niêm yết. Ông Hoan lý lẽ: “Phải có đóng dấu thì văn bản mới có giá trị pháp lý. Nếu tôi ký mà không có đóng dấu thì đó chỉ là chữ ký của cá nhân tôi chứ không phải là chữ ký của công chứng viên Hoàng Xuân Hoan”.
Ông Trần Anh Tuấn, Trưởng phòng Công chứng số 3 TP.HCM, cho biết: Sau khi thụ lý hồ sơ khai nhận di sản, công chứng viên sẽ gửi văn bản đề nghị UBND cấp phường niêm yết trong 30 ngày. Tiếp đó, cán bộ của phòng công chứng sẽ đến UBND phường để thực hiện việc niêm yết công khai. Việc niêm yết này phải có chữ ký xác nhận của cán bộ công chứng và đại diện UBND phường. Sau đó, chủ tịch UBND phường (hoặc phó chủ tịch được ủy quyền) phải ký tên và đóng dấu xác nhận vào biên bản niêm yết. Vì chưa có hướng dẫn nên phòng này cũng tự soạn thảo các biểu mẫu liên quan (văn bản, biên bản niêm yết...) để giải quyết các hồ sơ về thừa kế.
Riêng Phòng Công chứng số 1 TP.HCM thì có cách làm khác. Trưởng phòng Nguyễn Quang Thắng cho biết việc niêm yết tại phường thường gặp nhiều khó khăn. Có phường chịu ký xác nhận và đóng dấu, có phường chỉ đồng ý ký tên. Để gọn nhẹ, phòng này vẫn chấp nhận những biên bản niêm yết chỉ có chữ ký của cán bộ phường. Vẫn theo ông Thắng, để thực hiện đúng nguyên tắc luật định về việc tự chịu trách nhiệm của các bên khi giao dịch, Phòng Công chứng số 1 từng kiến nghị Bộ Tư pháp bỏ hẳn thủ tục niêm yết tại địa phương. Bấy giờ, nếu có tranh chấp thì các bên có thể khởi kiện ra tòa án.
Theo bà Võ Thị Hằng, Chủ tịch UBND phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, có phòng công chứng chỉ đem đến duy nhất một văn bản nên phường phải sao y để niêm yết, còn bản chính thì lưu. Cũng có phòng mang đến hai văn bản niêm yết. Trước giờ, biên bản niêm yết tại phường này đều do chủ tịch hoặc phó chủ tịch chuyên trách ký xác nhận và đóng dấu.
Ông Thân Trọng Minh, Chủ tịch UBND phường 4, quận Gò Vấp, cũng khẳng định trước nay phường này đều để chủ tịch hoặc phó chủ tịch ký xác nhận, đóng dấu biên bản niêm yết. Sự cố bỏ sót đồng thừa kế như Báo Pháp Luật TP.HCM đã đăng tải chỉ là hãn hữu và có lẽ đã không xảy ra nếu Phòng Công chứng số 1 kiên quyết từ chối những biên bản chỉ có mỗi chữ ký của cán bộ phường.
Báo cũng có bài Thiếu cơ chế bảo đảm thực thi Hiến pháp. Bài báo phản ánh: ngày 11-3, Bộ Tư pháp tổ chức hội thảo tổng kết Chỉ thị 12 ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền.
Theo Thứ trưởng thường trực Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên, Việt Nam đã có bước tiến dài trên các mặt bảo vệ, đấu tranh, tuyên truyền về quyền con người. Không có pháp luật thì không bảo đảm quyền con người nhưng có pháp luật mà không thực thi được thì quyền con người có như không.
Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - TS Dương Thanh Mai cho rằng một trong những hạn chế trong việc bảo đảm quyền hiến định của công dân Việt Nam hiện nay là chưa có quy định bảo đảm các quy định của Hiến pháp được thực thi trên thực tế và xử lý các vi phạm Hiến pháp...
Đánh giá về 17 năm thực hiện Chỉ thị 12, Bộ Tư pháp cho biết đã tham gia thể chế hóa các quy định về quyền con người và thực thi quyền con người vào các văn bản pháp luật được giao chủ trì hoặc tham gia soạn thảo. Bộ cũng đã thực hiện trao quyền tiếp cận pháp lý cho người nghèo - đối tượng dễ bị tổn thương nhất thông qua các hoạt động như trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật...
Báo cũng có bài "Bộ Tư pháp thổi còi Bộ Nông nghiệp". Bài báo phản ánh: Ngày 9-3, Cục Kiểm tra văn bản QPPL (Bộ Tư pháp) đã có công văn gửi Bộ NN&PTNT đề nghị bộ này tự kiểm tra lại Văn bản 1492/CN-TĂCN ban hành ngày 31-12-2008 về việc kiểm tra melamine trong nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.
Trước đó, Báo Nhân Dân có ý kiến của Tổng cục Hải quan cho rằng công văn trên của Bộ NN&PTNT “còn nhiều điểm trái với quy định của các văn bản hiện hành, do đó không thể thực hiện được”. Cụ thể, công văn đề nghị Tổng cục Hải quan chỉ đạo các cơ quan hải quan “lấy mẫu xác suất kiểm tra melamine của các loại nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu thuộc nhóm có nguy cơ nhiễm melamine”. Trong khi đó, Luật Hải quan quy định công chức hải quan chỉ lấy mẫu để phục vụ quản lý hải quan chứ không có nhiệm vụ lấy mẫu kiểm tra melamine của các loại nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.
Một nội dung khác trong công văn “Trong khi chờ kết quả phân tích, cho phép doanh nghiệp được làm thủ tục thông quan và niêm phong các lô hàng nhập khẩu; các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ được phép sử dụng các lô hàng nhập khẩu trên khi có kết quả phân tích melamine phù hợp với quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn”. Viết như vậy, người đọc sẽ hiểu là cơ quan hải quan niêm phong hàng hóa sau khi đã thông quan để chờ kết quả kiểm tra. Điều này không phù hợp với quy định tại Nghị định 154/NĐ-CP.
Công văn 1492 yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu phải có văn bản cam kết với cơ quan hải quan về melamine trong nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu. Điều này cũng không phù hợp với Nghị định 154 vì hồ sơ hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu không có giấy tờ này.
Cục Kiểm tra văn bản QPPL đề nghị Bộ NN&PTNT làm rõ hai nội dung. Thứ nhất, Công văn 1492 tuy ban hành dưới hình thức văn bản hành chính cá biệt nhưng nội dung công văn có chứa quy phạm pháp luật hay không? Thứ hai, nội dung công văn có trái với các văn bản đã dẫn ở trên hay không?...
Báo có bài Dự án luật Bồi thường nhà nước: Đề nghị chỉ bồi thường 11 trường hợp. Bài báo phản ánh: Nhiều ý kiến tại hội thảo của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội hôm 11-3 nhất trí rằng lần đầu tiên xây dựng đạo luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước có ý nghĩa to lớn trong việc bình đẳng hóa quan hệ của nhà nước và công dân. Theo đó, phạm vi điều chỉnh của dự luật được xác định gồm ba lĩnh vực: quản lý hành chính, thi hành án và tố tụng.
Đối với các trường hợp thiệt hại do hành động của người thi hành công vụ trong lĩnh vực hành chính gây ra, Chính phủ đề nghị chỉ giới hạn phạm vi bồi thường trong 11 trường hợp cụ thể. “Trong điều kiện hiện nay, lĩnh vực quản lý hành chính mà mở ra hết thì rất rộng, phức tạp và khó khả thi. Sau này thấy khả năng áp dụng tốt hơn, tính khả thi cao hơn thì sửa luật để mở rộng dần” - Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng giải trình. Ủng hộ ý kiến này, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Đinh Xuân Thảo cho rằng trong điều kiện năng lực đội ngũ công chức còn yếu, hành vi làm sai vẫn phổ biến mà quy định cái gì công chức sai nhà nước phải bồi thường hết thì nhà nước “vỡ nợ”.
Không đồng tình, ủy viên Đoàn chủ tịch MTTQ Việt Nam Nguyễn Văn Pha lên tiếng: Nếu lấy lý do chưa có điều kiện về kinh tế, rồi trình độ đội ngũ công chức có hạn thì không biết đến bao giờ mới có nền công vụ hiệu quả. “Vừa qua, phát hiện sai phạm ở nhiều địa phương khi thực hiện chính sách hỗ trợ người nghèo ăn Tết của Chính phủ thì thấy rằng nhiều nơi cán bộ rất thiếu trách nhiệm” - ông Pha dẫn chứng. Còn theo GS Nguyễn Minh Thuyết, giới hạn phạm vi bồi thường là trái Hiến pháp. “Nếu nhà nước thiếu tiền thì bồi thường phần nào đó để tỏ rõ trách nhiệm” - GS Thuyết nói. UBTVQH cũng kết luận: “Mặc dù điều kiện kinh tế-xã hội nước ta hiện nay còn khó khăn; trình độ, năng lực cũng như ý thức tuân thủ pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế... nhưng không vì thế mà hạn chế quyền của công dân yêu cầu nhà nước bồi thường thiệt hại”.
Mặc dù thừa nhận nguyên tắc của pháp luật dân sự là thiệt hại đến đâu thì bồi thường đến đó nhưng UBTVQH đánh giá trong điều kiện hiện nay, việc tính đúng, tính đủ để bồi thường ngang bằng giá trị thiệt hại là rất khó. Tuy nhiên, mức bồi thường cụ thể thì phải có lý, có tình và phải khả thi. Đồng thời, xác định mức bồi thường phải dựa trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Trường hợp không thỏa thuận được thì người đòi bồi thường có thể khởi kiện ra tòa.
Đối với người thi hành công vụ làm sai, dự luật quy định họ phải có trách nhiệm hoàn trả cho nhà nước một khoản tiền mà nhà nước đã bồi thường. Tuy nhiên, mức hoàn trả sẽ tùy thuộc vào mức độ lỗi và khả năng kinh tế của người đó. Do tính chất đặc thù, dự luật quy định người tiến hành tố tụng hình sự thì không phải chịu trách nhiệm hoàn trả khoản bồi thường nếu lỗi được xác định là không cố ý. GS Nguyễn Minh Thuyết đề xuất nên nghiên cứu thành lập bảo hiểm công vụ và buộc công chức phải mua loại hình bảo hiểm này. Trong khi đó, Viện trưởng Đinh Xuân Thảo lưu ý: “Nếu quy định trách nhiệm cá nhân khắt khe thì có thể dẫn đến tình trạng cán bộ, công chức sợ sai mà không dám hành động, dẫn đến sự trì trệ của nền công vụ”.
2. Báo Người lao động trên mục Bạn đọc có bài "CÔNG TY CỔ PHẦN BẾN XE MIỀN TÂY - TPHCM: Cho NLĐ thôi giữ chức vụ trái pháp luật". Bài báo phản ánh: Vừa qua, bà Dương Thị Minh Đẩu, ngụ tại phường 11, quận 5 - TPHCM, đã đến Báo Người Lao Động gửi đơn khiếu nại quyết định cho thôi giữ chức vụ của Công ty CP Bến xe Miền Tây (BXMT) - TPHCM và yêu cầu công ty hủy quyết định này theo bản án đã có hiệu lực thi hành.
Tháng 6-2005, bà Đẩu được điều động về BXMT và giữ chức vụ phó phòng kinh doanh, quản lý hợp đồng thuê mặt bằng. Trong thời gian làm việc, bà Đẩu bị khách hàng tố cáo gây khó khăn trong việc cho thuê mướn mặt bằng. Do đó, công ty đã họp xét kỷ luật vì hành vi của bà Đẩu đã vi phạm nội quy đơn vị. Song, khi bỏ phiếu đề xuất mức kỷ luật, hội đồng kỷ luật xét thấy hành vi vi phạm của bà Đẩu không lớn nên không xử lý.
Tuy nhiên sau đó, căn cứ vào biên bản họp xét kỷ luật lao động và nhu cầu công tác, phẩm chất, năng lực cán bộ, cũng như theo đề nghị của trưởng phòng tổ chức - hành chính, công ty lại ra quyết định khác, với nội dung cho bà Dương Thị Minh Đẩu thôi chức phó phòng kinh doanh và sắp xếp cho bà làm nhân viên tại bãi giữ xe 2 bánh. Bà Đẩu không đồng ý nên làm đơn khiếu nại. Công ty ra quyết định giữ nguyên quyết định trước đó (cho bà Đẩu thôi giữ chức vụ) và bà đã khởi kiện ra tòa.
Theo quy định của pháp luật, trong biên bản họp xét kỷ luật lao động phải có kết luận về hình thức xử lý vi phạm và người có thẩm quyền xử lý vi phạm phải ra quyết định bằng văn bản. Trong trường hợp bà Đẩu, Công ty CP BXMT không đưa ra một hình thức kỷ luật nào. Tiếp đó, công ty lại ra quyết định cho bà thôi giữ chức vụ, chuyển sang công việc khác mà không có sự thỏa thuận giữa hai bên là trái quy định của pháp luật. Hình thức kỷ luật này chỉ áp dụng đối với người lao động đã bị khiển trách bằng văn bản nhưng tái phạm trong 3 tháng kể từ ngày bị khiển trách.
Từ những nhận định trên, bản án phúc thẩm của TAND TPHCM đã tuyên hủy quyết định của Công ty CP BXMT đối với bà Đẩu. Song, khi bản án đã có hiệu lực thi hành, công ty không tự nguyện thi hành án.
Trao đổi với chúng tôi mới đây, ông Trần Văn Phương, Trưởng Phòng Tổ chức -Hành chính Công ty CP BXMT, cho rằng công ty sẽ chấp hành bản án, song do trong cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm có nhiều sai sót nên công ty đã gửi văn bản đến cơ quan chức năng để chỉnh sửa. Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Ngữ, Trưởng Thi hành án dân sự quận Bình Tân, cũng cho biết đã ra quyết định thi hành bản án này.
Theo tin chúng tôi vừa nhận được, Công ty CP BXMT mới ra quyết định hủy quyết định cho thôi giữ chức vụ và khôi phục chức phó phòng kinh doanh cho bà Dương Thị Minh Đẩu. Song, bà Đẩu vẫn chưa hoàn toàn đồng ý với quyết định này, vì chức phó phòng kinh doanh của bà lại phụ trách tổ vệ sinh, không đúng với công việc trước đó; đồng thời công ty cũng không thông báo cho nhân viên biết việc hủy quyết định trái pháp luật đã ban hành.
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Viết tiếp bài Chi nhánh văn phòng luật sư pháp quyền: Gian dối quỵt tiền đối tác. Bài báo phản ánh: Báo CATP ra ngày 24-2-2009 có bài viết “Chi nhánh văn phòng luật sư Pháp Quyền gian dối, quỵt tiền đối tác” phản ánh những vụ bê bối tiền bạc của Chi nhánh văn phòng luật sư Pháp Quyền do Lê Trần Luật làm trưởng chi nhánh văn phòng. Trong đó có khoản nợ dai dẳng 42 triệu đồng Pháp Quyền đã “tạm ứng không hoàn trả” của Công ty Huy Hồng, khoản tiền tạm ứng 30 triệu đồng mà Luật đã nhận để đòi nợ dùm bà L. (Tây Ninh). Sáng 25-2-2009, Cơ quan thi hành án quận Gò Vấp đã cưỡng chế Chi nhánh văn phòng luật sư Pháp Quyền tại số 30 đường số 3, căn cứ 26. Luật sư Lê Trần Luật vắng mặt; các nhân viên có mặt tại văn phòng bất hợp tác, có những lời lẽ xúc phạm tổ công tác thi hành án. Sau hơn hai tiếng đồng hồ, công việc cưỡng chế, kê biên mới hoàn tất. Tổ công tác đã kê biên năm bộ máy vi tính và một máy photocopy.
Ngay sau đó, điện thoại của các thành viên trong tổ công tác liên tục nhận được những tin nhắn chửi bới, đe dọa, khủng bố. Trên trang blog cá nhân, Tạ Phong Tần - kẻ xưng là nhân viên của Chi nhánh văn phòng luật sư Pháp Quyền - đã rêu rao, mỉa mai vụ cưỡng chế. Lớn lối hơn nữa, trang blog này viết: “Đồng thời, thông báo rộng rãi cho mọi người cùng biết rằng: ông Luật sẽ tặng tất cả số tài sản bị cưỡng chế kê biên cho các tổ chức từ thiện, học sinh nghèo hiếu học nào có nhu cầu, vì sau khi bị thi hành án chiếm giữ niêm phong sơ sài như thế, theo ông Luật chúng đã không còn giá trị sử dụng như ban đầu. Mấy ngày qua, văn phòng đã mua sắm lại máy mới để làm việc rồi. Mọi chi tiết về việc tặng máy xin liên hệ với tôi (Tạ Phong Tần, điện thoại: 0987228728) tại Văn phòng luật sư Pháp Quyền”. Đơn khiếu nại vụ cưỡng chế thi hành án cũng được Chi nhánh văn phòng luật sư Pháp Quyền gửi đi khắp nơi.
Ngoài mặt thì đám người này lu loa trên các diễn đàn như thể mình bị oan. Phía trong nội bộ, Lê Trần Luật cử nhân viên đi năn nỉ cơ quan thi hành án cho đóng số tiền 42 triệu đồng nợ Công ty Huy Hồng để sớm chuộc lại 5 bộ máy vi tính và một máy photocopy. Tên gọi là Pháp Quyền thật sự có ý nghĩa đối với văn phòng luật này. Chỉ khi nào pháp luật được thực thi thì những luật sư này mới e dè. Số tiền gần 100 triệu đồng Công ty Huy Hồng tạm ứng cho Pháp Quyền từ năm 2006. Đến năm 2008, công ty mới nhận lại được một nửa. Nếu không có sự can thiệp mạnh của thi hành án, có lẽ số tiền 42 triệu đồng còn lại đã không đến tay Công ty Huy Hồng.
Tương tự, bà L. (Tây Ninh) tạm ứng cho Lê Trần Luật 30 triệu để nhờ Luật đòi dùm một khoản nợ khó đòi. Cầm tiền xong, Luật dông mất dạng. Bà L. phải xuống TPHCM mai phục trước cửa nhà Luật từ nửa đêm để bắt tận tay day tận mặt nhưng kết quả nhận được cũng chỉ là những lời hứa. Chỉ đến khi vụ cưỡng chế thi hành án diễn ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp vào cuộc, bọn Luật mới thật sự rúng động. Tại cơ quan công an, Luật viện lý do bận công việc nên không thể gặp các “đối tác” của mình. Bây giờ thì anh ta rất mong được gặp họ, cụ thể là bà L., để trả lại các khoản tạm ứng. Chiêu thức trưng dụng tiền đối tác của Luật đã đến lúc gặp khó khăn nên anh ta phải nghĩ cách đối phó. Trong những hợp đồng làm ăn sau này, Pháp Quyền không đưa ra thời hạn thực hiện hợp đồng bằng một con số cụ thể nữa mà ghi chung chung “khi vụ kiện kết thúc” hoặc “khi kết thúc vụ việc”. Với mốc thời gian vô chừng này, anh ta và đồng sự sẽ trưng dụng những khoản tạm ứng mà đối tác chi lâu dài.
Trước những rối ren do Chi nhánh văn phòng luật sư Pháp Quyền mà cụ thể là Lê Trần Luật cùng đồng sự gây ra cho người dân và xã hội, thiết nghĩ Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận nên nhanh chóng xem xét lại tư cách của luật sư Lê Trần Luật. Có nên đặt một con người nhiều thủ đoạn gian dối như Luật ở vị trí bảo vệ pháp luật như hiện nay không?
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đang thụ lý hồ sơ vụ chiếm đoạt tiền của chi nhánh Văn phòng luật sư Pháp Quyền.
4. Báo điện tử Vietnamnet có bài "Muốn giải quyết đình công tốt, phải hoàn thiện pháp luật". Bài báo phản ánh: “Nguyên nhân chủ yếu của đình công là do người sử dụng lao động (LĐ) chưa giải quyết đúng quyền lợi cho người lao động. Cộng với việc chưa tổ chức được thương lượng nên xảy ra đình công. Cần có giải pháp hoàn thiện pháp luật đình công để các cuộc đình công diễn ra đúng pháp luật, trật tự”, ông Nguyễn Hoà Bình, Phó Chủ tịch Tổng LĐ LĐVN cho biết ngày 12/3 tại hội nghị bàn về quan hệ lao động lành mạnh do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tổ chức.
Ông Bình cho biết, đình công có nguyên nhân đều do quan hệ lao động, đó có thể là kiến nghị đảm bảo quyền lợi của người lao động như làm đúng giờ, trả lương đúng hạn, các chính sách khác như bảo hiểm, thưởng... Đa số đình công có nguyên nhân chủ yếu do người sử dụng lao động chưa giải quyết đúng quyền lợi cho lao động. Cộng với việc chưa tổ chức được thương lượng nên xảy ra đình công. Để giải quyết đình công, theo ông Bình cần phải hoàn thiện pháp luật đình công để các cuộc đình công diễn ra đúng pháp luật, trật tự. Bởi thực tế chế tài còn nhẹ, nên không răn đe giáo dục được.
Đặc biệt, theo ông Bình, phải đảm bảo tổ chức công đoàn được thành lập trong các doanh nghiệp. Hiện có địa phương chỉ có 29% doanh nghiệp xảy ra đình công có tổ chức công đoàn. Nhiều nơi người sử dụng lao động chưa tạo điều kiện thành lập công đoàn, nên không thể có thương lượng, thường xảy ra đình công tự phát. Ngoài ra ông Bình cho rằng, cần phải nâng cao nhận thức pháp luật cho người lao động, bởi thực tế nhận thức pháp luật chung của họ còn hạn chế. Nếu vậy sẽ hạn chế xung đột.
Liên quan đến vấn đề quan hệ lao động, ông Phùng Quang Huy, Giám đốc Văn phòng Môi giới sử dụng lao động, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, cần phải tạo cho người lao động những kiến thức, những khả năng về quan hệ lao động kỹ năng về nghề nghiệp, kỹ năng giao tiếp lao động. Ông Huy có kiến nghị, cần phải linh hoạt hơn nữa trong các chính sách đối với người lao động và người sử dụng lao động.
Các số liệu dẫn ra cho thấy, khi người lao động và sử dụng lao động không được giải quyết hài hòa về mặt quyền lợi và nghĩa vụ thì sẽ dẫn tới những hệ lụy gây ảnh hưởng chung cho xã hội. Theo báo cáo của Vụ Lao động-Tiền lương (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) số vụ đình công xảy ra trong năm 2008 trên cả nước là trên 650 vụ, tăng 30% so với năm 2007.
Cũng về vấn đề quan hệ lao động, ông Đặng Đức San, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ LĐTB&XH) cho rằng, lực lượng thanh tra phải tăng cường số lượng. Số này trước mắt tập trung vào 15 tỉnh có khu công nghiệp lớn, đồng thời phải tăng cường thanh tra tại quận, huyện nơi sát doanh nghiệp nhất để nắm bắt được cụ thể sự việc. “Trước mắt Bộ LĐTB&XH dự định sẽ biệt phái thanh tra của mình xuống quận, huyện làm thanh tra, ngoài ra các cơ quan quản lý cũng phải tăng cường kiểm tra giám sát để không để mâu thuẫn lao động xảy ra”, ông San cho biết. Tuy nhiên, ông San cũng cho biết còn phải chờ Chính phủ quyết định. Bởi theo Luật Thanh tra, thanh tra của chúng ta phải là thanh tra chuyên ngành.
Về vấn đề này Bộ LĐTB&XH sẽ phối hợp với Tổng Liên đoàn lao động tổ chức kiểm tra DN, để hướng dẫn họ, đồng thời đưa ra hình thức DN tự kiểm tra, từ đó phát hiện những DN chưa chấp hành, để có hướng dẫn tiếp. Hiện Bộ đang xây dựng đề án trình Bộ Nội vụ.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 13/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm