Trong buổi sáng ngày 10/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 9-3, tại thành phố Đà Nẵng, Đảng, Đoàn, Quốc hội, Ban chỉ đạo xây dựng đề án về công tác giám sát của Quốc hội đã tổ chức Hội thảo "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội". Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn chủ trì hội thảo.
Hội thảo đã tập trung nghe các tham luận, ý kiến trao đổi về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn về hoạt động giám sát của Quốc hội, bao gồm những vấn đề lớn: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, trong đó tập trung các vấn đề về xem xét báo cáo của các cơ quan, cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm; về chất vấn và trả lời chất vấn, hoạt động giám sát theo chuyên đề. Thực trạng và những vấn đề cần đổi mới trong hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, bao gồm vai trò, thực trạng hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban.
2. Báo Vietnamnet phản ánh: Chiều 9/3, Thường trực Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội đã cho ý kiến về một số nội dung trong dự án Luật Quản lý nợ công như bảo lãnh của Chính phủ, quyền vay nợ của địa phương... Sau khi tiếp thu ý kiến của các ĐBQH tại kỳ họp thứ 4, Ban soạn thảo dự án luật đã sửa đổi quy định về quyền vay nợ của địa phương theo hướng tỉnh sẽ chủ động đi tìm nguồn vay, đàm phán, sau đó trình Thủ tướng. Chính phủ sẽ ký thỏa thuận vay và cho địa phương đi vay lại.
Quy định này, theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Trịnh Huy Quách, nhằm tạo điều kiện cho các địa phương có năng lực tài chính được chủ động tìm kiếm nguồn vay. Hình thức Chính phủ ký thỏa thuận vay và cho vay lại cũng là cách để bảo đảm thống nhất đầu mối và quản lý chặt chẽ hơn.
Tại kỳ họp QH vừa qua, khi dự án luật được đưa ra thảo luận lần đầu, không ít đại biểu đồng thời là lãnh đạo địa phương đã lo ngại việc lãnh đạo HĐND, UBND địa phương hoạt động theo nhiệm kỳ. Do vậy, sẽ không loại trừ khả năng địa phương "thỏa thích" ký vay nợ và tìm mọi cách thuyết phục đối tác cho vay, bất chấp việc trả nợ sau này. Về cân nhắc trường hợp nào sẽ được cấp bảo lãnh Chính phủ, dự án luật cũng đã bổ sung và cụ thể hóa các điều kiện cụ thể, nhằm thu hẹp hơn nữa đối tượng được cấp bảo lãnh. Tuy nhiên, nhiều đại biểu băn khoăn về quy định "trường hợp đặc cách" được xét cấp bảo lãnh Chính phủ. Theo đó, Chính phủ sẽ bảo lãnh cho doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư bảo đảm tối thiểu 20% tổng mức vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu. Với các dự án, công trình trọng điểm, các dự án lớn có tính cấp bách nhưng nếu doanh nghiệp chưa đáp ứng được điều kiện về vốn chủ sở hữu, Thủ tướng có thể tùy từng trường hợp cụ thể để xem xét không áp dụng điều kiện này.
Theo phân tích, nếu doanh nghiệp đã không đáp ứng được điều kiện về vốn chủ sở hữu, thì khó có thể nói sẽ đủ năng lực đảm nhận thi công các dự án, công trình trọng điểm quốc gia.
Dự án Luật Quản lý nợ công sẽ tiếp tục được hoàn thiện. Nếu được thông qua tại kỳ họp thứ 5 sắp tới, luật này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Diễn đàn doanh nghiệp có bài "Xác định điểm dừng của quyền tiếp cận thông tin". Bài báo phản ánh: Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên, Phó trưởng Ban soạn thảo Dự án luật Tiếp cận thông tin (TCTT): “Dự Luật TCTT phải đảm bảo để cung cấp thông tin tối đa cho người dân, giúp họ thực hiện được quyền làm chủ...”.
Nhìn nhận dưới góc độ chuyên gia pháp lý, ông Dương Đăng Huệ - Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự kinh tế (Bộ Tư pháp) cho rằng, chức năng của Luật TCTT là giải quyết mâu thuẫn giữa quyền TCTT của người dân, nhưng vẫn đảm bảo được việc giữ bí mật thông tin của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Điều quan trọng là phải xác định được "điểm dừng" trong quyền tự do TCTT của người dân. Trong đó, luật cần quy định rõ trách nhiệm đối với những người thực hiện không đúng nghĩa vụ cung cấp thông tin, nhưng cũng phải nghiêm khắc đối với những người lạm dụng quyền TCTT để gây rối, hay sử dụng thông tin vào mục đích không phù hợp, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và xã hội. Cũng theo ông Dương Đăng Huệ, trong mối quan hệ với các văn bản pháp luật hiện hành, Luật TCTT không làm thay đổi các luật khác, mà chỉ phối hợp, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về quyền TCTT. Luật TCTT phải là luật gốc để các luật chuyên ngành quy định về vấn đề TCTT.
Được biết, đa số các thành viên Ban soạn thảo Dự án Luật TCTT tán thành ý kiến Nghĩa vụ cung cấp thông tin thuộc về cơ quan hành chính Nhà nước. Theo đó, Dự án Luật TCTT đưa ra quy định về cán bộ phụ trách thông tin: mỗi cơ quan sẽ có một cán bộ độc lập đảm nhiệm việc cung cấp và công khai thông tin ở các cơ quan mình, hoặc quy định trách nhiệm cung cấp thông tin cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng, Luật không nên quy định cán bộ độc lập phụ trách cung cấp thông tin. Vì làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến vấn đề tổ chức nhân sự. Xét về góc độ tổ chức, nhân sự, người phát ngôn chính thức vẫn phải là người đứng đầu cơ quan đó (ngoại trừ việc ủy quyền). Thêm nữa, hiện nay chúng ta cũng có quy định vềõ người phát ngôn chính thức của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa phát huy được hiệu quả như các nhà làm luật mong muốn. Một phương án tối ưu nhận được nhiều ý kiến của Ban soạn thảo là để bản thân các đầu mối quản lý thông tin tự cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật.
Một câu hỏi được nhiều người quan tâm là những thông tin nào thì được tiếp cận và không được tiếp cận? Theo quy định hiện hành, những thông tin không được tiếp cận là những thông tin mật. Luật gia Hồng Tuyến (Hội Luật gia TP. Hà Nội) cho rằng, Luật TCTT phải làm rõ ranh giới giữa thông tin mật và thông tin không mật (được quyền tiếp cận). Thực tế cho thấy có nhiều thông tin, văn bản.
Ông Nguyễn Chí Dũng - Văn phòng Quốc hội nêu ý kiến: chúng ta cần phải phân loại các thông tin theo mức độ tiếp cận. Đó là thông tin trên các website, để người dân tiếp cận nhanh chóng, dễ dàng, không cần phải khai báo danh tính. Loại thông tin thứ hai là thông tin được cung cấp theo yêu cầu. Và sau cùng là loại thông tin cung cấp có điều kiện (người được cung cấp thông tin phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định). Trên thực tế có không ít trường hợp những văn bản không đáng giữ bí mật vẫn bị đóng dấu mật. Ngược lại, những thông tin đã hết thời gian giữ bí mật, nhưng vẫn không được giải mật...? Đây chính là rào cản khi người dân thực hiện quyền TCTT của mình. ĐS &PL đã trao đổi vấn đề này với nhiều chuyên gia pháp lý và nhận được chung câu trả lời: không phải thông tin mật là có thể tiếp cận. Theo Dự án luật, thông tin là tin tức, thông tin được soạn thảo, sở hữu và quản lý bởi các cơ quan, tổ chức trong khi các cơ quan, tổ chức thực thi nhiệm vụ của mình. Những thông tin này được thể hiện, sao chép trong các tài liệu, bản vẽ, hình ảnh, phim, băng...
Với tư cách là một người dân, bác Hùng Cương (Hà Nội) nêu ý kiến: Người dân quan tâm đến trách nhiệm của người cung cấp thông tin. Luật phải có chế tài thật nghiêm đối với những hành vi cản trở quyền TCTT của người dân. Nói gì thì nói, nếu người có trách nhiệm cung cấp thông tin dựa vào quyền hạn của mình cố tình không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin thì Luật TCTT rất khó đi vào cuộc sống.
2. Báo Sài Gòn giải phóng có bài "Tp Hồ Chí Minh, 3 năm thực hiện cải cách tư pháp: Luật sư bị làm khó". Bài báo phản ánh: Mặc dù chất lượng của hoạt động tư pháp tại TPHCM đã được nâng lên so với trước đây, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Với ngành tư pháp, nổi cộm nhất là nhân sự thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Trong khi, giới luật sư (LS) lại gặp không ít trở ngại khi hành nghề…
Phải giải quyết khối lượng công việc rất nhiều trong tình trạng thiếu hụt cán bộ là nỗi lo thường trực của các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo số liệu thống kê của ngành công an, toàn thành phố còn thiếu khoảng 450 điều tra viên, bình quân mỗi điều tra viên phải “ôm” hơn 10 vụ án/năm, dẫn đến tình trạng quá tải. Tương tự, ngành kiểm sát thiếu 63 biên chế. Riêng ngành tòa án, tuy so với chỉ tiêu chỉ còn thiếu 16 thẩm phán, nhưng – theo Chánh án TAND TPHCM Bùi Hoàng Danh – đáng lo ngại là tình trạng CB – CC xin nghỉ việc. Các cơ quan tư pháp cũng không khá hơn. Tại Sở Tư pháp TPHCM và các đơn vị trực thuộc còn thiếu 26 CB – CC so với 352 biên chế được giao, ngành thi hành án dân sự (THADS) TPHCM thiếu 51 người.
Nguyên nhân chính của việc khó tuyển dụng biên chế cho các cơ quan này cũng như tình trạng xin nghỉ, chuyển ngành sau một thời gian làm việc là thu nhập quá thấp, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với tính chất phức tạp của công việc. Trong khi đó, với trình độ cử nhân luật, họ có thể tìm được công việc khác với mức lương hấp dẫn hơn.
Bà Ngô Minh Hồng – Giám đốc Sở Tư pháp TPHCM, bộc bạch: “Mặc dù sở đã thông báo việc tuyển dụng công khai trên phương tiện thông tin đại chúng và chủ động phối hợp với Trường Đại học Luật TPHCM tiếp xúc với các sinh viên trước khi ra trường để vận động các em đến làm việc cho ngành, nhưng vẫn không tuyển dụng đủ biên chế. Đợt vừa qua, trong số 80 sinh viên được mời đến trao đổi nguyện vọng, chỉ có khoảng 50 em liên hệ lại với sở. Sau khi sở chọn được 25 em để hướng dẫn thủ tục tuyển dụng, chỉ có 14 em nộp hồ sơ”.
Chất lượng đội ngũ cán bộ cũng là nỗi lo khi thực hiện cải cách tư pháp. Nhiều cơ quan điều tra quận - huyện than rằng từ khi thực hiện tăng thẩm quyền, số lượng án thụ lý tăng, tính chất vụ án phức tạp hơn nhưng lại không được bổ sung điều tra viên trung cấp vì không có nguồn.
Lãnh đạo một VKSND quận thẳng thắn nhìn nhận: trình độ, kỹ năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của một số kiểm sát viên chưa ngang tầm với yêu cầu cải cách tư pháp (CCTP). Không ít kiểm sát viên vẫn còn ỷ lại vào hồ sơ do cơ quan điều tra chuyển qua nên chưa ý thức trong việc nghiên cứu, vì vậy khi thẩm vấn không làm rõ được nội dung vụ án hoặc đưa ra chứng cứ không thuyết phục khi tranh luận với luật sư.
Dù Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã quy định LS được quyền tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra, nhưng thực tế thì có không ít trường hợp LS không được tạo điều kiện để tham gia vụ án từ khi khởi tố bị can.
LS Nguyễn Thành Công (Công ty Luật TNHH Đông Phương Luật) và LS Trần Ngọc Quý (Đoàn LS TPHCM) cho biết: “Nhiều cán bộ điều tra nhận thức được sự tham gia của LS từ giai đoạn điều tra có lợi cho cả hai bên – người bị tạm giữ, bị can được bảo vệ quyền lợi từ đầu, đồng thời sau này ra tòa họ sẽ không thể phản cung, kêu oan với lý do bị điều tra viên mớm cung, ép cung – nên tạo điều kiện thuận lợi cho LS. Tuy nhiên, vẫn còn một số điều tra viên cố tình “làm khó”, không muốn để LS tiếp xúc sớm với thân chủ của mình. Chính vì thế, vai trò của LS trong việc làm sáng tỏ hành vi vi phạm pháp luật một cách khách quan của người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn ban đầu nhiều lúc bị hạn chế”.
Khi được hỏi về vấn đề này, có điều tra viên đã thừa nhận: “Chúng tôi phải cảnh giác, bởi LS bào chữa theo hợp đồng với bị can thì không còn tính vô tư, góp phần tìm ra sự thật vụ án mà chỉ tìm cách xúi giục thân chủ của mình phản cung, khai báo không đúng sự thật hoặc tiết lộ những thông tin của vụ án đang được điều tra ra bên ngoài. Có những vụ, sau khi LS vào tiếp xúc với bị can là gia đình bị can thưa kiện cơ quan điều tra. Chúng tôi lại phải mất thời gian giải trình. Thôi thì hạn chế LS là hơn!”.
Một khi cách nghĩ sai lệch như vậy còn tồn tại thì số vụ án bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc sau khi xét xử sơ thẩm bị tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố hủy, trả hồ sơ để điều tra lại từ đầu do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như thời gian qua chưa chấm dứt; đồng thời hiệu lực của các quy định pháp luật không được đảm bảo. Không thể phủ nhận rằng sau ba năm thực hiện CCTP, công tác tư pháp tại TPHCM đã có biến chuyển. Tuy nhiên, để xây dựng nền tư pháp thật sự vững mạnh và dân chủ, ngành tư pháp cần nỗ lực hơn nữa, tích cực tự hoàn thiện trong hoạt động cũng như giải quyết các tồn tại phát sinh.
3. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Phải đến gần 13 tháng sau khi Luật Công chứng có hiệu lực, văn phòng công chứng (VPCC - công chứng tư) đầu tiên mới được chính thức khai trương tại Hà Nội. Tháng 1 vừa qua, tức chỉ 6 tháng sau đó, Bộ Tư pháp ra văn bản yêu cầu UBND TP tạm dừng việc cấp phép thành lập văn phòng mới.
Một trong những "nạn nhân" của văn bản này là GS.TS Nguyễn Niên. Được bổ nhiệm làm công chứng viên từ tháng 12/2008, hồ sơ, thủ tục và kinh phí cũng đã chuẩn bị "hòm hòm" nhưng ông đã " chậm chân" không kịp mở VPCC của riêng mình.
Vị cựu Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Văn phòng Chính phủ không giấu vẻ thất vọng: "Tháng 12 Bộ cấp chứng chỉ để tôi mở văn phòng công chứng rồi, thế mà tháng 1 lại yêu cầu Hà Nội dừng việc cấp phép. Trong khi cấp hay không là thẩm quyền và trách nhiệm của UBND Thành phố. Tôi đã được cấp chứng chỉ thì tôi có quyền hành nghề". Đã lên phương án hoạt động cho VPCC sẽ mở tại Cầu Giấy, ông Niên cho rằng, không thể đưa ra lý do "phân bổ chưa hợp lý" để quy hoạch VPCC theo kiểu "rải đều". "Thị trường sẽ tự điều tiết. Nếu mở ra mà không làm ăn được thì tất yếu anh sẽ chết yểu thôi. Không thể dùng một mệnh lệnh hành chính để quyết định, hơn nữa mệnh lệnh này lại tạo sự bất bình đẳng giữa những người đã kịp mở VPCC và những người "chậm chân" như tôi".
Đồng quan điểm này, TS luật Trần Đình Triển nói: "Đã xã hội hóa thì cứ để những ai có đủ điều kiện được phép lập VPCC và coi đây là một sự cạnh tranh lành mạnh. Nơi nào làm tốt, phục vụ chuyên nghiệp, giá cả hợp lý, dân sẽ tự tìm đến và ngược lại".
Trong khi đó, đại diện phía Bộ Tư pháp - cơ quan ra văn bản, Thứ trưởng Đinh Trung Tụng thì việc dừng lại là do chưa có quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng với địa bàn Hà Nội mở rộng. Do đó, trước mắt sẽ yêu cầu thành phố dừng cấp phép, tiến hành rà soát để lên quy hoạch mới.
Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp Trần Thất - một trong những tác giả tích cực nhất cho chủ trương xã hội hóa công chứng - cũng nói: "Sau khi mở rộng địa giới hành chính, cần phải làm đề án mới, mà một trong những nội dung quan trọng là phải quy hoạch, phân bổ mạng lưới hành nghề công chứng một cách hợp lý", ông Thất cho hay.
Ở Hà Tây (cũ), nơi các giao dịch về nhà đất đang phát triển nhanh, lại chưa có VPCC nào được thành lập. Trong khi ở nội thành Hà Nội hiện nay, có quận có tới 7 VPCC, và có nơi không có văn phòng hay phòng công chứng nào. Ông Trần Thất còn cho rằng, với 37 VPCC và 9 PCC đang hoạt động, "trước mắt đã đáp ứng gần đủ nhu cầu" của Thủ đô.
Như vậy, việc cấp phép thành lập văn phòng công chứng mới sẽ phải tạm dừng trong thời gian tiến hành rà soát, xem xét các tổ chức hành nghề công chứng và chờ quy hoạch tổng thể phát triển nghề công chứng mà Bộ Tư pháp sẽ trình Thủ tướng phê duyệt vào giữa năm 2009. Mục tiêu của đề án nhằm hình thành bản đồ quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp, phân bố hợp lý trên toàn quốc.
Thứ trưởng Đinh Trung Tụng "gợi ý", với những công chứng viên (CCV) đã được bổ nhiệm như ông Nguyễn Niên, trước mắt khuyến khích họ đến làm việc ở các VPCC đã mở. Các trưởng VPCC hiện đang hoạt động nhờ nhanh nhạy với chủ trương xã hội hóa khi được hỏi đều cho rằng chuyện dừng cấp phép là đúng. Than "gặp khó", "đói" khách hàng, doanh thu thấp, thậm chí có người còn lo lắng tương lai "các văn phòng sẽ phải sáp nhập để duy trì hoạt động".
Theo số liệu thống kê được nộp lên Sở Tư pháp Hà Nội, trong 6 tháng, 19 VPCC đã thu được hơn 4,3 tỉ đồng tiền lệ phí từ trên 15.000 hợp đồng giao dịch.
Theo TS luật Nguyễn Ngọc Điện, đúng là cần quy hoạch để bảo đảm công ăn việc làm cho CCV cũng như để tránh chuyện cạnh tranh không lành mạnh. "Điều đáng nói là, lẽ ra việc quy hoạch phải được đặt ra và giải quyết trước khi triển khai hoạt động công chứng tư. Đợi đến khi đã mở được một số rồi mới tạm ngừng để quy hoạch thì vô hình trung, Nhà nước tạo ra tình trạng phân biệt đối xử giữa người đến trước và người đến sau. Như vậy là không đúng luật".
Đó mới chỉ là khía cạnh số lượng. Về chất lượng hoạt động, hệ thống dữ liệu chung để công chứng nhà nước cũng như tư nhân chia sẻ với nhau trước mắt trong phạm vi một tỉnh và sau đó trên toàn quốc, nhằm tránh những rủi ro, sai sót, cho đến giờ này, vẫn chưa được triển khai.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 10/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.