Trong buổi sáng ngày 27/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Cục Phát hành và kho quỹ - Ngân hàng nhà nước vừa cho biết tình trạng tiền giả trong lưu thông tại Việt Nam thông qua số lượng tiền giả thu giữ được trong thời gian qua đang giảm.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng nhà nước, tổng số tiền giả thu giữ tính theo số tờ tiền giả qua hệ thống ngân hàng, kho bạc nhà nước trong năm 2008 giảm 18,1% so với năm 2007. Trong số tiền giả, chủ yếu là tiền giả loại 100.000 đồng (chiếm 32,5%) và 50.000 đồng (chiếm 30,5%). Theo Cục Phát hành và kho quỹ, mức độ tiền giả thu giữ được bởi hệ thống ngân hàng là một yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ tiền giả trong lưu thông. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ nhằm ngăn chặn tiền giả lọt vào kho quỹ ngân hàng.
Báo cũng phản ánh: Các hãng xe ôtô chỉ cần có tối thiểu 20 hoặc 30 xe. Không bắt buộc tài xế xe chở khách du lịch có bằng A tiếng Anh. Đó là sửa đổi trong dự thảo thông tư về quản lý xe ôm và dự thảo nghị định về điều kiện kinh doanh vận tải do Cục Đường bộ Việt Nam soạn thảo. Nhiều nội dung bất cập, thiếu khả thi mà Báo Pháp Luật TP.HCM phản ánh đã được loại bỏ.
Theo Cục Đường bộ Việt Nam, trong dự thảo thông tư về quản lý xe ôm trước đây, người chạy xe ôm phải làm đơn xin phép và phải được cấp có thẩm quyền cho phép mới được hoạt động. Lái xe ôm phải tham gia vào các tổ, đội hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể... Sau khi công bố dự thảo, Cục đã nhận được khá nhiều ý kiến phản hồi từ phía dư luận. Đa số cho rằng quy định như vậy sẽ không khả thi, không phù hợp thực tế. Cục Đường bộ đã cùng các đơn vị chức năng họp bàn quyết định sửa dự thảo theo hướng bãi bỏ các thủ tục về giấy phép, hành nghề và mức giá trần đối với xe ôm. Người muốn hành nghề xe ôm chỉ cần có hộ khẩu thường trú hoặc giấy chứng nhận tạm trú, có đủ các điều kiện về điều khiển xe máy. Dự thảo cũng đặt ra điều kiện là tài xế xe ôm phải đeo phù hiệu hoặc mặc trang phục theo quy định của UBND cấp tỉnh. Dự thảo thông tư cũng yêu cầu UBND cấp tỉnh phải rà soát, quy định các điểm được phép dừng đỗ, đón trả khách.
Trước đây, Cục Đường bộ đã đưa vào dự thảo nghị định về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ôtô điều khoản buộc tài xế xe chở khách du lịch phải có bằng A tiếng Anh. Các đơn vị kinh doanh vận tải phải có tối thiểu từ 30 đến 50 xe. Điều này sẽ đẩy hàng ngàn lái xe và gần 700 doanh nghiệp trước nguy cơ thất nghiệp hoặc đóng cửa vì không đủ điều kiện hoạt động.
Bản dự thảo mới nhất đã bỏ khoản lái xe chở khách du lịch phải có bằng A tiếng Anh. Số lượng phương tiện tối thiểu các hãng vận tải buộc phải có đã được giảm xuống. Đơn vị kinh doanh vận tải dưới một hình thức chạy hợp đồng, tuyến cố định, xe du lịch hoặc taxi thì chỉ cần có 20 xe. Còn những đơn vị có hai hình thức kinh doanh trở lên phải có số lượng tối thiểu là 30 xe. Theo dự thảo, từ ngày 1-1-2010 trở đi, bắt buộc xe ôtô liên tỉnh chạy cự ly trên 1.000 km, xe chạy hợp đồng, xe container, rơmóoc, sơmi rơmóoc phải lắp đặt “hộp đen”. Từ ngày 1-1-2011 trở đi sẽ lắp đặt “hộp đen” trên xe buýt và xe khách liên tỉnh chạy cự ly dưới 1.000 km. Theo Cục Đường bộ, đây mới chỉ là những điều chỉnh tạm thời. Cục sẽ tiếp tục lấy ý kiến từ dư luận, địa phương và các bộ, ngành để hoàn thiện hai dự thảo trên cho phù hợp thực tế.
2. Báo Nhân dân phản ánh: Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 dự kiến diễn ra từ ngày 30-3 đến ngày 1-4 tới sẽ là phiên họp thường kỳ theo hình thức truyền hình trực tuyến đầu tiên của Chính phủ.Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ dự nội dung về kinh tế - xã hội qua hệ thống truyền hình trực tuyến, khi cần thiết có thể phát biểu về những nội dung Chính phủ quan tâm.
Ðến nay, công tác chuẩn bị kỹ thuật cho phiên họp Chính phủ thường kỳ này đã cơ bản hoàn tất và đang kiểm tra độ ổn định của hệ thống thiết bị. Hiện các đầu mối kết nối trực tuyến từ phòng họp chính tại Trụ sở Chính phủ tới Văn phòng UBND các địa phương đã được kiểm tra, bảo đảm thông suốt. Giám đốc công nghệ thông tin của các bộ được triển khai tập huấn về quy trình vận hành phòng họp điện tử của Chính phủ. UBND các tỉnh, thành phố đã bố trí phòng họp phù hợp, hoàn tất việc lắp đặt các thiết bị kỹ thuật...
3. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú - phó Ban chỉ đạo phòng chống hàng giả và gian lận thương mại T.Ư (Ban chỉ đạo 127) - vừa ký công văn gửi Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân kiến nghị chuyển trách nhiệm chính trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát mặt hàng sữa cho Bộ Y tế và Ban chỉ đạo quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm chủ trì.
Trước đó ngày 19-2, Văn phòng Chính phủ có văn bản thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân về việc giao Ban chỉ đạo 127 T.Ư chủ trì triển khai các giải pháp khắc phục, xử lý việc sản xuất và bán các sản phẩm sữa kém chất lượng, báo cáo Thủ tướng trước ngày 30-6. Tuy nhiên, đến nay Ban chỉ đạo 127 T.Ư cho rằng trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm với mặt hàng thực phẩm, cụ thể là sữa, trước hết phải thuộc về Bộ Y tế. Bộ Công thương và Ban chỉ đạo 127 T.Ư chỉ nên có trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế và các cơ quan liên quan trong công tác kiểm tra, kiểm soát mặt hàng này.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhân dân có bài "Vì sao Văn phòng luật sư Lê Trần Luật bị đình chỉ hoạt động". Bài báo phản ánh: Văn phòng luật sư Pháp Quyền (VPLSPQ) do ông Lê Trần Luật làm trưởng văn phòng, có trụ sở tại TP Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận), vừa bị Sở Tư pháp tỉnh Ninh Thuận ra quyết định đình chỉ hoạt động. Nguyên nhân do đâu?
Ông Lê Trần Luật có chứng chỉ hành nghề luật sư từ tháng 4 năm 2002 và giấy đăng ký hoạt động do Sở Tư pháp Ninh Thuận cấp vào tháng 6 năm 2004. Ngoài VPLSPQ ở tỉnh Ninh Thuận, ông Luật còn đặt hai chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh và một chi nhánh tại thị trấn Bến Lức, tỉnh Long An. Có chứng chỉ hành nghề và lập văn phòng cùng các chi nhánh, luật sư Lê Trần Luật với tư cách là Trưởng VPLSPQ lại có những việc làm vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Theo báo cáo của Chi cục Thuế TP Phan Rang - Tháp Chàm, trong ba năm từ 2004 đến 2006, VPLSPQ tại tỉnh Ninh Thuận không thực hiện việc đăng ký mở sổ sách kế toán, sử dụng hóa đơn chứng từ, không nộp báo cáo quyết toán thuế và báo cáo tài chính, không thực hiện nộp tờ khai thuế GTGT hằng tháng và không chấp hành nộp thuế môn bài theo quy định.Tại TP Hồ Chí Minh, Chi cục Thuế thành phố cho biết, Chi nhánh số 2 VPLSPQ tại TP Hồ Chí Minh không thực hiện việc mở sổ sách và kê khai nộp thuế cho Cục Thuế TP Hồ Chí Minh; không thực hiện việc đăng ký mã số thuế; không nộp thuế GTGT.
Trong thời gian hoạt động, ông Lê Trần Luật lợi dụng nghề nghiệp của mình đã làm nhiều việc vi phạm đạo đức nghề luật sư, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của giới luật sư.Ngày 20-12-2006, luật sư Lê Trần Luật ký hợp đồng dịch vụ pháp lý số 30 với Công ty TNHH Huy Hồng liên quan việc chuyển nhượng quyền sử dụng một lô đất, nhận tạm ứng trước 100 triệu đồng. Trong hợp đồng có điều khoản ghi rõ "bất luận lý do gì mà việc chuyển nhượng không thành thì bên B (VPLSPQ) phải hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng". Trên thực tế việc chuyển nhượng không thành. Không những VPLSPQ không trả lại tiền cho khách hàng, mà theo lời bà Hồ Thị Huy Hồng, Giám đốc Công ty TNHH Huy Hồng, thì thái độ của ông Lê Trần Luật đối với khách hàng hết sức lỗ mãng. Cực chẳng đã, Công ty Huy Hồng khởi kiện ra tòa. Theo quyết định của Tòa án Nhân dân quận Gò Vấp TP Hồ Chí Minh, VPLSPQ phải trả cho công ty 84 triệu đồng chia làm hai đợt, mỗi đợt 42 triệu đồng. Sau khi trả được một nửa vào đợt 1, đến đợt 2 (29-5-2008) không chịu trả. Sau hơn bốn tháng quá hạn mà ông Luật vẫn chầy bây không trả nốt, công ty đeo bám đòi nợ không được, phải gửi đơn đến cơ quan chức năng yêu cầu VPLSPQ thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự quận Gò Vấp nhiều lần gửi giấy báo để Lê Trần Luật "tự nguyện thi hành án" nhưng ông ta vẫn phớt lờ, phải quyết định kê biên tài sản tại chi nhánh Văn phòng TP Hồ Chí Minh để bảo đảm thi hành án.Ngày 14-5-2007, luật sư Lê Trần Luật ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20 với ông Tạ Tấn Tài, đại diện Công ty TNHH Hồng Lạc Xuân ở số 141 Trần Hưng Ðạo, phường 10, quận 5, TP Hồ Chí Minh, được tạm ứng trước 13 triệu đồng nhưng luật sư Lê Trần Luật không thực hiện hợp đồng cũng không hoàn trả lại số tiền nói trên.
Ngày 7-9-2007, luật sư Lê Trần Luật ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 40 với bà Trà Thị Lùng, thường trú ở xã Hiệp Tân, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, luật sư Lê Trần Luật được tạm ứng 30 triệu đồng nhưng sau 12 tháng không thực hiện hợp đồng và cũng không hoàn trả số tiền trên.
Trong đơn tố giác gửi các cơ quan pháp luật đề ngày 30-10-2007, bà Hồ Thị Huy Hồng cho rằng: VPLSPQ đã lợi dụng lòng tin của khách hàng, lợi dụng uy tín của báo chí để quảng bá tên tuổi văn phòng mình, đưa ra những lời cam kết suông chỉ nhằm mục đích kiếm lợi riêng cho mình. Hợp đồng dịch vụ pháp lý là do VPLSPQ soạn thảo, thời hạn thực hiện hợp đồng cũng do VPLSPQ cam kết và đặt ra thù lao hợp đồng. Tất cả đều do các luật sư ở đây tư vấn, hướng dẫn. Khi VPLSPQ không thực hiện được nghĩa vụ của mình nhưng không những không trao đổi thỏa thuận với khách hàng mà chiếm trọn số tiền mà khách hàng đã đưa.
Mặt khác, thái độ làm việc của luật sư tại VPLSPQ cũng cần được chấn chỉnh. Khi yêu cầu được cung cấp dịch vụ pháp lý và nhận thù lao thì họ rất ân cần nhưng khi khách hàng yêu cầu được thanh toán lại tiền (do khách hàng không được VPLSPQ cung ứng dịch vụ như đã cam kết) thì bị quát tháo, dùng từ xưng hô thô tục và thách thức, đe dọa khách hàng khởi kiện.Những hành vi bội tín, vô trách nhiệm, "có dấu hiệu lừa đảo" và ứng xử vô văn hóa của VPLSPQ và của ông Lê Trần Luật, như nhiều khách hàng khẳng định bằng những chứng cớ rành rành, đã trở thành hệ thống.
Không cần phải nói gì thêm, kiểu hành nghề sai pháp luật, vô đạo đức của Lê Trần Luật bị cơ quan quản lý Nhà nước xử lý, tước quyền sử dụng không thời hạn giấy đăng ký hoạt động của VPLSPQ là hoàn toàn đích đáng. Với những hành vi sai pháp luật và vi phạm đạo đức nghề nghiệp như trên, rõ ràng ông Lê Trần Luật không đủ tư cách để bảo vệ lẽ phải và công lý. Hơn thế nữa, dư luận đề nghị các cơ quan chức năng vào cuộc làm rõ và xử lý nghiêm những hành vi sai phạm của VPLSPQ.
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài "Ngang nhiên chiếm đất, chính quyền bó tay". Bài báo phản ánh: Căn cứ vào bản án số 05/DS-PT ngày 9-1-2006 của TAND tỉnh Đồng Nai, ngày 26-7-2006, cơ quan Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom đã ra quyết định buộc ông Bùi Xuân Mận và bà Lê Thị Hồng tháo dỡ toàn bộ căn nhà cấp bốn xây dựng trái phép trên diện tích đất 1.453,2m2 thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Văn Dũng và bà Đỗ Thị Minh Tuyết ở khu phố 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom. Thế nhưng sau khi “chấp hành án”, vợ chồng ông Mận ngang nhiên thách thức pháp luật bằng việc tiếp tục... dựng nhà và chiếm đất.
Quá bức xúc trước thái độ coi thường pháp luật của ông Mận và bà Hồng, vợ chồng ông Nguyễn Văn Dũng (ngụ phường 4, quận Tân Bình, TPHCM) đã đến tòa soạn Báo CATPHCM gửi đơn kêu cứu. Theo ông Dũng trình bày, vào năm 1992, ông sang nhượng lại mảnh đất trên của ông Đinh Văn Long. Do sinh sống và làm việc ở TPHCM nên ông nhờ ông Đỗ Ngọc Úy (anh của bà Tuyết - vợ ông Dũng) trông coi và đóng thuế đất hàng năm. Sau đó ít lâu thì phát hiện ông Úy đem thế chấp giấy tờ đất vào ngân hàng. Gia đình ông Dũng đã trực tiếp đến ngân hàng để trả tiền và lấy giấy tờ thì mới vỡ lẽ, khu đất trên đã được ông Úy bán cho ông Mận, bà Hồng. Ngay lập tức ông Dũng báo cho UBND TT. Trảng Bom về sự việc trên. Qua xác minh của chính quyền địa phương, thì toàn bộ giấy tờ sang nhượng từ ông Úy cho ông Mận, bà Hồng đều do các đương sự trên giả chữ ký của ông Dũng, bà Tuyết. Do đó UBND TT. Trảng Bom đã ra quyết định thu hồi 2 giấy xác nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất: 1- giữa vợ chồng ông Dũng với ông Úy; 2- giữa vợ chồng ông Úy với bà Hồng, ông Mận. Đến ngày 3-11-1997, xét thấy việc kê khai hoàn toàn hợp pháp của ông Dũng, nên chính quyền địa phương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông. Từ đó phát sinh khiếu kiện, việc vợ chồng ông Mận cho rằng đã mua lại mảnh đất trên của ông Úy đã bị TAND tỉnh Đồng Nai bác bỏ (theo kết quả giám định chữ ký của các giấy tờ liên quan đến việc mua bán giữa ông Úy - ông Mận đều không phải là chữ ký của ông Dũng).
Thế nhưng liên tục trong thời gian dài, ông Mận và bà Hồng đã ngang nhiên, chiếm đất dựng nhà bất chấp bản án có hiệu lực của TAND tỉnh Đồng Nai (ngày 9-1-2006); và 2 quyết định cưỡng chế của Thi hành án huyện Trảng Bom (ngày 23-6-2006 và 4-8-2006) đồng thời còn lớn tiếng thách thức. Theo tìm hiểu của chúng tôi thì ở hai quyết định thi hành án, ông Mận và bà Hồng tỏ ra là người am hiểu pháp luật, chấp hành tốt các quyết định của Hội đồng cưỡng chế. Thế nhưng ở cả hai lần thi hành án, sau khi hội đồng ra về, họ lại cho người đến ở, xây dựng nhà trái phép và ngang nhiên chiếm đất.
“Được biết ông Bùi Xuân Mận là cán bộ ngân hàng, còn bà Hồng là giáo viên của một trường cấp 2 có uy tín tại TT. Trảng Bom và đều là đảng viên. Nhiều vấn đề được đặt ra, liệu có phải là người địa phương có quan hệ rộng rãi, quen biết những người có chức quyền nên vợ chồng ông Mận mới có thái độ coi thường pháp luật?” - Ông Dũng bức xúc nói. Ông Dũng còn cho biết, liên tục trong thời gian qua, ông đã gửi đơn đến cơ quan các cấp nhờ can thiệp, xử lý nhưng mọi việc đâu vẫn hoàn đấy. Đất mình bị người khác chiếm giữ trái phép, vi phạm pháp luật. Còn người chiếm đất, thì vẫn ung dung tự tại, thậm chí còn dựng nhà cho người khác thuê.
Báo cáo số 382/BC-CAH ngày 6-12-2006 của CA huyện Trảng Bom gửi lãnh đạo các cấp để xin ý kiến giải quyết việc không chấp hành án của bà Lê Thị Hồng cũng khẳng định bà Hồng, ông Mận đều là đảng viên, việc dựng lại chòi sau khi cơ quan thi hành án tổ chức cưỡng chế là vi phạm pháp luật, có dấu hiệu của tội không chấp hành án. Để tìm hiểu sự việc, PV báo CATP đã có cuộc trao đổi với ông Vũ Xuân Tiến - Phó CA huyện Trảng Bom. Theo ông Tiến thì hiện sự việc không thuộc thẩm quyền của CA huyện. Việc bà Hồng dựng lại chòi sau khi THA đã cưỡng chế và làm biên bản bàn giao quyền sử dụng đất cho ông Dũng, bà Tuyết (ngày 4-8-2006) thì trách nhiệm của THA đã xong. Trách nhiệm giải quyết vụ việc này thuộc thẩm quyền của UBND các cấp.
Cũng liên quan đến vấn đề này, bà Nguyễn Thị Thành - Chủ tịch UBND huyện Trảng Bom có vẻ né tránh. Đồng thời bà còn đề nghị PV nên tìm hiểu nguyên nhân tại sao vợ chồng ông Mận, bà Hồng không chịu thi hành án. Theo bà Thành thì sự việc còn kéo dài là do phía người bán đất (ông Úy) chưa trả tiền cho vợ chồng bà Hồng (!?), đồng thời đề nghị chúng tôi nên gặp THA để tìm hiểu.
Như vậy mọi thứ đã quá rõ, bà Hồng, ông Mận là những người có vị thế xã hội, đảng viên nhưng đã liên tục vi phạm pháp luật (có hành vi cấu kết với ông Úy giả mạo giấy tờ, chữ ký của ông Dũng), đồng thời bất chấp quy định của pháp luật, chống lại những quyết định có hiệu lực của TAND tỉnh, quyết định cưỡng chế của THA huyện Trảng Bom. Không lẽ chính quyền và các cơ quan chức năng phải bó tay trước những hành vi ngang ngược, vi phạm pháp luật này?
3. Báo Tuổi trẻ có bài "Hà Nội còn 49 văn bản chậm điều chỉnh sau khi mở rộng". Bài báo phản ánh: Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo vừa có chỉ thị yêu cầu các sở, ngành của TP khẩn trương tập trung thực hiện, hoàn thành công tác rà soát, hợp nhất, xây dựng và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế chính sách để thống nhất trong điều hành sau hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính.
Theo UBND TP Hà Nội, trong tổng số 73 văn bản quy phạm phát luật, cơ chế chính sách có nội dung giống nhau hoặc khác biệt không lớn, cần hợp nhất ban hành ngay nhưng mới chỉ có 24 văn bản được ban hành mới. Số còn lại 49 văn bản, cơ chế chính sách cần phải xây dựng mới nhưng các sở, ngành được giao nhiệm vụ chủ trì chưa trình UBND TP xem xét, ban hành. UBND TP khẳng định việc một số sở, ngành được giao chủ trì chưa hoàn thành đúng tiến độ TP giao có nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là do các sở, ngành chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng trong công tác này; chưa có sự quan tâm, đầu tư về thời gian và cán bộ thực hiện và chưa nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của UBND TP gây ảnh hưởng tới điều hành chung của TP.
Chủ tịch TP Nguyễn Thế Thảo yêu cầu các sở, ngành phải nghiêm túc rút kinh nghiệm trong nội bộ cơ quan và đơn vị. Đồng thời chỉ thị đối với các văn bản, cơ chế chính sách phải hủy bỏ, các sở, ngành phải khẩn trương rà soát, gửi văn bản, cơ chế chính sách của UBND TP đã hết hiệu lực, phải hủy bỏ về Sở Tư pháp trước ngày 30-4. Sau đó, Sở Tư pháp rà soát, tổng hợp, dự thảo quyết định trình TP ký ban hành hủy bỏ trước ngày 25-5. Đối với các văn bản, cơ chế chính sách phải rà soát, hợp nhất, xây dựng mới, TP đặt kế hoạch trước ngày 25-3 các sở, ngành phải hoàn thành dự thảo văn bản trình UBND TP, và trước ngày 30-4 UBND TP phải ký ban hành để phục vụ điều hành chung.
4. Báo Diễn đàn doanh nghiệp có bài "Cùng doanh nghiệp soạn luật". Bài báo phản ánh: Chất lượng các luật và văn bản dưới luật của chúng ta hiện vẫn chưa cao, vì thế việc đưa thực tiễn vào trong quá trình xây dựng văn bản là rất cần thiết. Đó là ý kiến của ông Vũ Viết Ngoạn – Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội khi trao đổi với DĐDN.Ông Ngoạn cho rằng: “DN là đối tượng xây dựng chính sách và là đối tượng có lợi từ chính sách qua chương trình tham gia xây dựng đó. Thế nhưng DN VN chưa thực sự chủ động với việc góp ý cho các chính sách tác động đến chính lợi ích của mình. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội liên tục nhận được đề nghị tiếp xúc, trao đổi từ phía các cộng đồng DN nước ngoài như Cộng đồng DN Châu Âu, Cộng đồng DN Australia về việc góp ý xây dựng chính sách, giải đáp các văn bản về phí, thuê, trong khi đó đề nghị từ phía các DN trong nước thì rất ít. Hầu như chỉ có VCCI là thường xuyên tổ chức các hoạt động lấy ý kiến DN và kiến nghị lên các cơ quan chức năng...
Theo ông, vì sao các DN lại ít tham gia quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) ?
DN của chúng ta chưa nhận thức được vai trò của mình để tham gia trong quá trình hoạch định chính sách, nếu có tham gia thì quá muộn. Đây là nét khác nhau trong phương thức xây dựng chính sách giữa cộng đồng DN nước ngoài với cộng đồng DN VN. Hiện nay, hệ thống các VBQPPL liên quan đến các hoạt động kinh tế đang chiếm phần lớn. Trong đó, hầu hết những văn bản này đều liên quan đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN. Tuy nhiên, tiếng nói của chính DN - những người chịu tác động trực tiếp đối với hệ thống VBQPPL - lại còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng như nó cần phải có. Các DN thường “ngại” tham gia đóng góp ý kiến xây dựng VBQPPL. Có 2 lý do để DN không tích cực đóng góp ý kiến xây dựng VBQPPL. Trước tiên phải nói tới, nhận thức về tầm quan trọng của tiếng nói DN trong các VBQPPL là chưa cao so với các DN nước ngoài. Chúng ta chỉ cần nhìn vào khối các DN FDI có thể thấy ngay sự quan tâm xây dựng chính sách pháp luật của các DN này cao hơn hẳn DN trong nước.
Lý do tiếp theo là các DN cảm thấy tiếng nói của mình chưa được các cơ quan tiếp nhận đầy đủ và thoải mái. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi xây dựng luật pháp là cả một quá trình. Có thể nhiều điểm DN đưa ra là đúng đắn nhưng cơ quan soạn thảo chưa sẵn sàng lắng nghe. Thực tế cơ quan soạn thảo luôn phải chịu rất nhiều sức ép từ nhiều nhóm lợi ích khách nhau. Các nhóm lợi ích luôn quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình. Chình vì vậy, DN phải kiên trì. Cho dù, ý kiến của DN là đúng, DN cũng phải thật kiên trì bảo vệ ý kiến của mình, lợi ích của mình. DN không nên nản lòng, nói một lần chưa được phải nói nhiều lần và đưa ra những lý lẽ thật hợp tình, hợp lý thì mới có thể thành công được.
- Cách tiếp cận thông tin góp ý từ DN, phản hồi của cơ quan soạn thảo hiện đã minh bạch chưa, nếu chưa tốt thì cần phải thay đổi ra sao, thưa ông ?
Với các quy định hiện hành, cách thu thập thông tin, ý kiến đóng góp của các cơ quan soạn thảo về cơ bản là minh bạch. Các bước trong quy trình soạn thảo VBQPPL đều được thực hiện khá đầy đủ và ngày càng được hoàn thiện hơn trước. Tôi có thể khẳng định rằng việc xây dựng luật của chúng ta hết sức khách quan, từ Quốc hội, Chính phủ, hay nói chung là ban soạn thảo luật đều lấy ý kiến của công chúng. Đặc biệt, trong tháng 3/2009 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 24/2009. Theo đó, tất cả các VBQPPL liên quan đến quyền và nghĩa vụ của DN đều phải gửi qua VCCI để lấy ý kiến rộng rãi các DN và chuyên gia. Do vậy, các DN và người dân nên phản hồi qua kênh này tích cực hơn. Bên cạnh đó, các DN và người dân nên vì quyền lợi công dân của mình để góp ý, xây dựng văn bản luật. Khó khăn lớn hiện nay là khi luật đã ra rồi, nhiều khi phải chờ nghị định, chờ thông tư nên gây khó không ít cho người dân. Do vậy, trong thời gian tới, Chính phủ và Quốc hội cũng phải xem xét để giải quyết vấn đề này.
- Thời gian vừa qua, không ít VBQPPL vừa ban hành đã khiến DN gặp khó. Theo ông cần phải có biện pháp nào để cải thiện kênh thu thập thông tin từ các DN? Từ đó, cơ quan ban hành và giám sát có thể nhanh chóng sửa đổi những VBQPPL bất cập ?
Thực tế chất lượng VBQPPL của chúng ta chưa cao như đã nói ở trên là đúng. Tuy nhiên, với một nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ như của chúng ta, điều này là rất khó tránh khỏi. Hệ thống luật và pháp lệnh của chúng ta đang liên tục được hoàn thiện, sửa đổi bổ sung và xây dựng mới các đạo luật. Tình trạng luật khung thiếu chi tiết đang được thay đổi nhưng vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, khi luật và pháp lệnh được ban hành là cả một hệ thống nghị định, thông tư hướng dẫn kèm theo. Việc phải ban hành cùng một lúc quá nhiều văn bản hướng dẫn chắc chắn sẽ dễ xảy ra chồng chéo, bất hợp lý. Thời gian vừa qua, cơ quan giám sát của Quốc hội luôn nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp của cá nhân, tổ chức về những bất cập của các VBQPPL. Cơ quan giám sát của Quốc hội cũng đã nhanh chóng yêu cầu các cơ quan ban hành sửa đổi những bất hợp lý. Tuy nhiên, theo tôi, các kênh tiếp nhận phản hồi cần được mở rộng hơn nữa. Quy trình tiếp nhận, sửa đổi cũng cần được cải thiện hơn rất nhiều. Những điểm bất hợp lý trong VBQPPL là những trở lực lớn trong tiến trình phát triển. Chúng ta càng cải thiện sớm ngày nào thì tiến trình phát triển của chúng ta càng thuận lợi ngày đó.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 27/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.