Điểm tin báo chí sáng ngày 25 tháng 12 năm 2008

25/12/2008
Trong buổi sáng ngày 25/12/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Đài truyền hình VTC phản ánh: Bà Lê Thị Tuyết Hoa, Vụ phó Vụ Kiểm sát điều tra án tham nhũng, thừa ủy quyền của lãnh đạo VKSND tối cao, cho biết: Lần đầu tiên là ngày 8/7, theo đề nghị của Văn phòng dự án JICA của Nhật tại Hà Nội, VKSND tối cao có buổi làm việc với hai công tố viên Nhật Bản trao đổi về tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đến ngày 11/7, VKSND tối cao nhận được công văn từ Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao gửi kèm văn bản đề nghị cùng hợp tác điều tra của Viện công tố Tokyo. Bản đề nghị gồm 6 phần, trong đó có nội dung đưa hai công tố viên Nhật cùng vào hợp tác điều tra ông Huỳnh Ngọc Sĩ. Theo tài liệu của phía Nhật, ông Sĩ bị nghi vấn nhận hối lộ 220.000 USD của bị can Morita - Tổng Giám đốc PCI (đơn vị trúng thầu tư vấn dự án sử dụng ODA Nhật Bản này).
Sau khi nghiên cứu tài liệu và các quy định của luật pháp Việt Nam, VKSND tối cao đã có công văn gửi bộ trưởng Bộ Tư pháp Nhật Bản và ông giám đốc Viện công tố địa phương Tokyo với hai nội dung. Thứ nhất, việc đưa hai công tố viên Nhật sang cùng hợp tác điều tra như đề nghị của Nhật không được quy định trong Luật Tương trợ tư pháp của Việt Nam. Thứ hai, do đôi bên chưa có hiệp định tương trợ tư pháp nên việc tương trợ tư pháp theo đề nghị của Nhật sẽ được thực hiện thông qua đường ngoại giao theo nguyên tắc có đi có lại, tuân thủ pháp luật Việt Nam. VKSND tối cao đề nghị Nhật Bản lập hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp theo quy định của luật Việt Nam và gợi ý đề cương mẫu để bạn thuận tiện áp dụng. Cũng theo bà Hoa, VKSND tối cao đã chuyển tài liệu đề nghị cùng hợp tác điều tra trên cho Bộ Công an để phối hợp khi Bộ Tư pháp Nhật Bản có hồ sơ chính thức.
Đến ngày 8/12, C37 ra quyết định số 04 khởi tố vụ án đưa và nhận hối lộ tại PMU Đông-Tây xảy ra trong thời gian 2003-2006. Đồng thời, C37 có công văn cho Bộ Tư pháp Nhật Bản yêu cầu cung cấp những nội dung cụ thể liên quan đến việc nhận hối lộ của ông Sĩ. VKSND tối cao thông qua đường ngoại giao đã gửi yêu cầu này cho Bộ Tư pháp Nhật.
Báo cũng cho biết: Tại buổi họp chiều nay (24/12), phiên họp thứ 15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhiều ý kiến tán thành xung quanh quy định về Hội đồng Kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng (KTST), theo đó, nhiều người tán thành như trong dự thảo Luật Quy hoạch đô thị; Cũng có ý kiến đề nghị quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTST và Hội đồng Kiến trúc quy hoạch để làm rõ về mối quan hệ giữa Hội đồng Kiến trúc quy hoạch, Sở Quy hoạch Kiến trúc và KTST; Có ý kiến cũng cho rằng không nên có chức danh KTST vì cư chế quản lý đầu tư, xây dựng hiện nay rất khó cho việc thực hiện vai trò của KTST.
Trước các ý kiến trên, cơ quan chủ trì thẩm tra và cơ quan soạn thảo đề nghị giữ Hội đồng Kiến trúc quy hoạch tại cấp tỉnh và chức danh KTST tại một số TP trực thuộc trung ương và TP thuộc tỉnh. Tuy nhiên, theo Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, khi có Hội đồng Kiến trúc quy hoạch và chức danh KTST thì Chính phủ cần nghiên cứu có nên giữ Sở Quy hoạch Kiến trúc ở một số TP như hiện nay không để tránh tình trạng chồng chéo về chức năng nhiệm vụ.
Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc của Quốc hội Ksor Phước cho rằng, bỏ Sở Quy hoạch Kiến trúc là không được. Cũng theo ông Ksor Phước, Hội đồng Kiến trúc quy hoạch cũng không làm được chức năng quản lý Nhà nước, đồng thời, phải làm rõ vấn đề khi KTST có ý kiến trái với Hội đồng thẩm định thì Chủ tịch TP sẽ nghe theo "ông" nào?!
Làm rõ hơn những băn khoăn của các đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân lý giải, các tỉnh thành trên cả nước không có Sở Quy hoạch Kiến trúc, chỉ có 2 đô thị đặc biệt là TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh thành lập Sở này do hệ quả của việc thành lập KTST thí điểm năm 1992 nhưng ngay sau đó đã cho thấy sự bất cập do không phân định rõ KTST có ngang với chức danh Phó Chủ tịch TP hay không, ai sẽ là người trả lương cho KTST? Vì vậy, vai trò của KTST cũng kém hiệu quả dẫn đến năm 2001 đã chính thức xóa bỏ vai trò KTST và thành lập Sở Quy hoạch Kiến trúc. Tuy nhiên, ông Quân cũng thừa nhận, sự hiện diện của Sở này cũng có nhiều bất cập. Người đứng đầu ngành xây dựng cũng cho biết đã trao đổi với Chủ tịch UBND TP Hà Nội và nhận được sự đồng tình về việc "giải tán" Sở Quy hoạch Kiến trúc, theo đó, quản lý Nhà nước về quy hoạch và kiến trúc sẽ là Sở Xây dựng.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) vừa chính thức ban hành văn bản về việc giảm cước thuê bao hàng tháng cho điện thoại cố định từ 27.000 đồng/tháng xuống còn 20.000 đồng/tháng kể từ 1.1.2009.
Bên cạnh việc giảm cước thuê bao cố định hàng tháng, VNPT cũng bãi bỏ việc tính cước nội tỉnh (giữa huyện với nhau), đồng nhất mức cước liên lạc trong phạm vi tỉnh (thành phố) cũng từ 1.1.2009. Mức cước nội hạt đồng nhất mà thuê bao cố định VNPT gọi tới các thuê bao cố định khác (cả thuê bao cố định của VNPT và thuê bao cố định của các doanh nghiệp khác) là 200 đồng/phút.
Báo cũng phản ánh: Hôm qua (24-12), bàn về dự án Pháp lệnh Án phí, lệ phí tòa án, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTV QH) đã nhất trí quy định cụ thể mức án phí, lệ phí đối với từng loại vụ án cụ thể ngay trong pháp lệnh này, dưới hình thức một danh mục ban hành kèm theo Pháp lệnh.
Xung quanh Pháp lệnh Án phí, lệ phí tòa án, đa số ý kiến trong UBTV QH cho rằng, để nâng cao trách nhiệm của người đi khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai thì quy định người đi khiếu kiện phải nộp tạm ứng án phí và chịu án phí trong trường hợp yêu cầu không được tòa án chấp nhận là phù hợp. Thực hiện như vậy sẽ tránh được tình trạng khiếu kiện thiếu căn cứ, gây bất ổn xã hội. Với các trường hợp đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; đòi bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự và vụ án hành chính sẽ không phải nộp tiền tạm ứng án phí, tiền án phí. Quy định như vậy bảo đảm tính nhân đạo, góp phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản… của công dân.
Hôm qua, UBTV QH đã nhất trí tăng thẩm quyền xét xử mới về hình sự và dân sự theo quy định tại khoản 1 điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự và điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự cho 120 tòa án cấp huyện. Đây là những đơn vị tòa án có từ 3 thẩm phán trở lên, số lượng các vụ án phải thụ lý không nhiều, số lượng án dự kiến tăng sau khi tăng thẩm quyền không lớn.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Lê Thị Thu Ba, Nghị quyết số 24 ngày 26-11-2003 và Nghị quyết số 32 ngày 15-6-2004 của QH quy định, đến ngày 1-7-2009 tất cả các đơn vị tòa án cấp huyện trong cả nước thực hiện thống nhất thẩm quyền xét xử mới. Vì vậy, TAND tối cao, Viện KSND tối cao cần có giải pháp cụ thể, hữu hiệu tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ, nhất là ở những đơn vị tòa án cấp huyện chỉ có 2 thẩm phán để có thể trình UBTV QH ra nghị quyết tăng thẩm quyền cho những đơn vị này trước ngày 1-7-2009.
Cuối giờ chiều, các ủy viên UBTV QH đã nhất trí sửa đổi điều 10 Pháp lệnh Dân số; trong đó ghi rõ, mỗi cặp vợ chồng và cá nhân chỉ được sinh 1 hoặc 2 con phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác. Chính phủ sẽ quy định cụ thể những trường hợp được coi là không vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình".         
3. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Sáng nay, 24-12, tại Nhà tưởng niệm Luật sư Nguyễn Hữu Thọ ( phường 1, TP Tuy Hòa), Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Phú Yên đã tổ chức lễ viếng, dâng hương và ôn lại thân thế sự nghiệp của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ nhân 12 năm ngày mất của ông (24-12-1996 – 24-12-2008).
4. Báo Công an nhân dân phản ánh: Chiều 24/12, Văn phòng Chính phủ đã tổ chức buổi họp báo Chính phủ cuối năm tại TP HCM. Tham gia buổi họp có 6 Bộ trưởng gồm: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ trưởng Bộ Tài chính; Bộ trưởng Bộ Công thương; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các Bộ trưởng đã báo cáo ngắn gọn kết quả công tác của các Bộ và kết quả điều hành của Chính phủ trong năm 2008.
Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách là phải tập trung mọi nỗ lực để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội, phấn đấu đạt mức tăng trưởng 6,5%.
Về đảm bảo an sinh xã hội, Chính phủ sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp hỗ trợ lương thực, chi phí sửa chữa nhà ở, phòng trừ dịch bệnh, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi đảm bảo không để xảy ra tình trạng người dân bị đói và nhanh chóng khôi phục sản xuất sau lũ lụt; khẩn trương rà soát, áp dụng ngay các chính sách hỗ trợ đầu tư nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững cho 61 huyện nghèo cả nước; thúc đẩy đầu tư xây dựng nhà ở cho người nghèo, các đối tượng chính sách, người lao động nghèo ở các khu công nghiệp tập trung và nhà ở cho học sinh, sinh viên; tổ chức triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội; tiếp tục thực hiện trợ cấp khó khăn cho người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước có đời sống khó khăn, thu nhập thấp…
Để có được kết quả như mong muốn, Chính phủ sẽ tổ chức tốt hơn công tác dự báo và phân tích kinh tế. Coi trọng đúng mức, tổ chức chặt chẽ và phát huy có hiệu quả lực lượng nghiên cứu hiện có. Đồng thời có cơ chế thích hợp để tranh thủ ý kiến của các chuyên gia nhằm nắm bắt kịp thời diễn biến của tình hình, kịp thời bổ sung, điều chỉnh các chính sách, giải pháp cho phù hợp với tình hình thực tế.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
Báo Nhân dân có bài Những nội dung mới của Luật Quốc tịch Việt Nam. Bài báophản ánh: Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 13-11-2008 và đã được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 28-11-2008. Luật gồm sáu chương, với 44 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2009.
Theo quy định của Luật, quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam.
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch đối với một quốc gia, ngay sau khi tuyên bố độc lập, Nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc ban hành pháp luật về quốc tịch Việt Nam, quy định ai là công dân Việt Nam. Ngày 20-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh đầu tiên số 53/SL quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch Việt Nam.Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất về một Nhà nước, Quốc hội đã ban hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 và tiếp theo là Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998.
So với bối cảnh ban hành Luật năm 1998, thì hiện nay đất nước ta đã có nhiều thay đổi quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; uy tín và vị thế quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Vấn đề quốc tịch Việt Nam cũng cần có những đổi mới cho phù hợp. Ðể đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước ta về đại đoàn kết toàn dân tộc, coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, do vậy Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều nội dung mới quan trọng sau đây:
Thứ nhất là về nguyên tắc quốc tịch (Ðiều 4). Ðể bảo đảm tính xuyên suốt, truyền thống của nguyên tắc một quốc tịch, đồng thời được áp dụng một cách mềm dẻo hơn, khắc phục được mâu thuẫn trong Luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn, Luật tiếp tục khẳng định nguyên tắc một quốc tịch, những trường hợp ngoại lệ có thể đồng thời có quốc tịch nước ngoài được quy định cụ thể trong các điều luật.
Việc khẳng định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa là từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà chỉ là sửa đổi nguyên tắc này cho mềm dẻo hơn, phù hợp hơn so với Luật năm 1998. Những trường hợp ngoại lệ này là những trường hợp được Chủ tịch nước cho phép khi xin nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3 Ðiều 19), xin trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5 Ðiều 23); trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Ðiều 37) và trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn mong muốn giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Ðiều 13).
Ðiểm mới thứ hai là việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (Ðiều 13). So với Luật Quốc tịch 1998, Luật quy định rõ về việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn năm năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước nơi người đó định cư để giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Ðiều 13).
Việc quy định phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là giải pháp cụ thể để trong một thời gian nhất định Nhà nước ta xác định được những ai trong số hơn ba triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn muốn giữ quốc tịch Việt Nam. Qua đó, xác định rõ ràng tình trạng quốc tịch của họ, tạo điều kiện để làm tốt công tác quản lý về quốc tịch, thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân cũng như các chính sách ngày càng rộng mở của Ðảng và Nhà nước đối với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài. Luật cũng bổ sung quy định việc không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là căn cứ để xác định mất quốc tịch Việt Nam theo khoản 3 Ðiều 26.
Ðiểm mới thứ ba là giải quyết vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam. Luật quy định "Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định" (Ðiều 22). Ðây là quy định rất quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết cho một bộ phận những người đang thường trú ở Việt Nam, chưa có quốc tịch Việt Nam mong muốn được nhập quốc tịch Việt Nam theo một trình tự, thủ tục đơn giản, nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ đúng thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
Ðiểm mới thứ tư là, bổ sung trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch (các Ðiều 21, 25, 29, 32 và 34) nhằm cải cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch hóa các trình tự, thủ tục này; quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình, tương ứng với trách nhiệm và tính chất công việc phải giải quyết của từng cơ quan, rút ngắn đáng kể thời gian giải quyết các việc về quốc tịch, tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là một đạo luật rất quan trọng, trực tiếp xác định ai là công dân Việt Nam, qua đó làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam.
Luật có nhiều quy định mới, thông thoáng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là một đóng góp quan trọng cho việc thực hiện Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Ðảng và Nhà nước ta.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 25/12/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm