I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: “Năm 2008: Lương tại Hà Nội tăng cao nhất cả nước”. Theo báo, trong Báo cáo Khảo Sát Lương 2008 do Navigos Group tiến hành, các công ty tại TP.HCM chiếm 57% trong tổng số các công ty tham gia khảo sát, tại Hà Nội và các vùng lân cận chiếm 17%, tại các tỉnh phía Nam (trừ TP.HCM) chiếm 17% và tại miền Trung chiếm 9%. Kết quả cho thấy, năm 2008 cho thấy Hà Nội có mức tăng lương cao nhất với 23,7% so với các tỉnh/thành khác, cao hơn gần 3% so với mức tăng lương 21% ở TP.HCM. Tuy nhiên, dù Hà Nội có mức tăng lương cao hơn TP.HCM trong năm 2008, nhưng nhìn chung, mặt bằng lương tại TP.HCM vẫn cao hơn do TP này luôn là trung tâm kinh tế của cả nước.
Kết quả Báo cáo Khảo Sát Lương Việt Nam 2008 có được là do Navigos Group phân tích số liệu lương thưởng từ tháng 4/2007 đến tháng 3/2008 của 64.905 nhân viên tại 206 công ty.
Bà Lia Abella, Trưởng phòng Dự án của Navigos Group cho biết đây là báo cáo khảo sát lương lớn nhất, toàn diện nhất và sâu sắc nhất tại Việt Nam trong năm 2008.
Trong tổng số công ty tham gia khảo sát, tỉ lệ công ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 71% và công ty Việt Nam chiếm 29%. Kết quả cũng cho thấy mức tăng lương tại các công ty Việt Nam đạt 20,2%, trong khi các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài đạt 20%. Mức tăng lương tại các doanh nghiệp Việt Nam có phần cao hơn có một phần do các doanh nghiệp này muốn rút ngắn khoảng cách lương thưởng trên thị trường nhằm tăng tính cạnh tranh trong việc thu hút nhân tài.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng chỉ ra lĩnh vực Tài chính có mức tăng lương cao nhất với 31.6%. Đó là năm thứ hai lĩnh vực tài chính tiếp tục dẫn đầu mức tăng lương so với các lĩnh vực khác. Lý do cho mức tăng lương này là trước khi nền kinh tế phát triển chậm lại như hiện nay, lĩnh vực ngân hàng đã phát triển khá mạnh.
So sánh tương quan về tiền lương giữa các cấp độ trong ba lĩnh vực chính bao gồm Tài chính, Hàng tiêu dùng và Sản xuất cho thấy bình quân mức lương của lĩnh vực Tài chính cao hơn so với lĩnh vực Hàng tiêu dùng và Sản xuất. Trong lĩnh vực Tài chính, bình quân mức lương gộp của cấp độ chuyên viên là 7.945 đôla/năm và của cấp độ quản lý là 19.591 đôla/năm. Bình quân mức lương gộp trong lĩnh vực Hàng tiêu dùng hơi thấp hơn, của cấp độ chuyên viên là 7.504 đôla/năm và của cấp độ quản lý là 18.752 đôla/năm. Còn trong lĩnh vực Sản xuất, bình quân mức lương gộp của cấp độ chuyên viên là 6.840 đôla/năm và của cấp độ quản lý là 14.588 đôla/năm.
Mặt khác, trình độ học vấn dường như vẫn là một yếu tố quan trọng quyết định mức lương, nhưng chỉ ở một cấp độ nhất định. Đối với những vị trí dành cho các ứng viên mới tốt nghiệp và chưa có nhiều kinh nghiệm, mức lương gộp bình quân dành cho người có bằng thạc sỹ vào khoảng 30.820 đôla/năm, còn đối với người có bằng cử nhân, mức lương này vào khoảng 10.263 đôla/năm. Đối với những vị trí ở cấp cao hơn, thước đo chính là những kỹ năng cụ thể và kinh nghiệm của ứng viên chứ không phải trình độ học vấn hay bằng cấp.
Theo Báo cáo Khảo Sát Lương Việt Nam 2008 cho thấy giai đoạn từ tháng 4/2007 đến tháng 3/2008, mức tăng lương đạt 19,5% và là mức tăng lương cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Lý do nhiều công ty tiến hành tăng lương chủ yếu là để ứng phó với tình hình lạm phát. Điều đó có thể dễ nhận thấy ở 61 trong tổng số 206 công ty tham gia khảo sát cho biết trong năm vừa qua, họ đã nhiều lần tiến hành điều chỉnh lương ngoài kế hoạch. Theo đó, 91% trong số các công ty có điều chỉnh lương cho biết họ đã điều chỉnh lương hai lần trong năm và 8,5% tiến hành điều chỉnh lương ba lần trong năm. Lý do chủ yếu khi điều chỉnh lương, theo các công ty này, là để ứng phó với tình hình lạm phát và để giữ nhân viên.
2. Trang tin Vietnamnet phản ánh: “Giải quyết khiếu nại, tố cáo: TƯ, địa phương đều lúng túng”. Theo trang tin, Báo cáo của Thanh tra Chính phủ cho thấy năm 2008, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân có lắng dịu, số vụ việc đã giảm so với năm 2007. Tình hình thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng giảm rõ rệt...
Nhưng theo Phó Tổng thanh tra Chính phủ Lê Tiến Hào, "số lượng nhiều hay ít không thành vấn đề. Đáng quan tâm hiện nay là khiếu nại kéo dài, bức xúc, vượt cấp, tiềm ẩn nhiều vấn đề trong thời gian tới".
Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng cũng phân vân: "Theo dõi các báo cáo, tôi thấy Chính phủ nói giảm, Tòa nói không giảm, Viện tối cao bảo giảm đáng kể... Như vậy, cơ sở để đánh giá hiệu quả của công tác này rất khó".
Chủ nhiệm UB Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển góp ý, cứ nhìn vào con số khiếu nại tố cáo giảm đi 10% thì chưa đánh giá hết tình hình. Vì số vụ việc giảm đi nhưng tính chất phức tạp lại tăng.
Ông Vượng phân tích rõ hơn, đơn thư gửi lên Viện kiểm sát có thể giảm vì khiếu nại chủ yếu với các bản án đã có hiệu lực. "Hiện nay, tâm lý của người dân gửi đến Tòa thấy hiệu quả hơn vì Tòa kháng nghị còn xét xử được, chứ Viện thì chỉ được kháng nghị", ông Vượng nói.
Chủ nhiệm UB Pháp luật Nguyễn Văn Thuận đề nghị, phải tìm hiểu lý do giảm các vụ khiếu kiện vì xử lý tốt hay do người dân không còn tin tưởng vào việc giải quyết của các cấp có thẩm quyền. "Khiếu nại tố cáo đất đai vì sao vẫn chiếm hơn 80%, do chính sách đền bù hay do cán bộ lợi dụng quyền hạn để tham nhũng?".
Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, nội dung tố cáo của người dân tập trung vào các vấn đề: Cán bộ công chức lãng phí, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, tài chính ngân sách, mua sắm tài sản công, đầu tư xây dựng cơ bản và thực hiện chính sách xã hội.
Dân cũng bức xúc trước tình trạng bao che cán bộ vi phạm, tình trạng cán bộ của cơ quan tiến hành tố tụng bắt giam sai, làm sai lệch hồ sơ, thiếu công minh và khách quan trong xét xử, thi hành án.
Thanh tra Chính phủ thừa nhận: "Tình trạng cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ quyền hạn, thiếu trách nhiệm trong công tác diễn ra nhiều nơi. Việc thanh tra, phát hiện và xử lý chưa nghiêm minh, kịp thời".
Lý giải cho bất cập trong giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, ông Trần Thế Vượng nói, do ở nước ta không có ai chuyên trách làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Theo ông Vượng, "quy định người đứng đầu, bộ trưởng, thủ trưởng song những người đó còn bao nhiêu việc cần làm". Phó Chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn lưu ý, trong số đơn thư gửi đến các ủy ban QH năm qua, có ủy ban chỉ chuyển cơ quan chức năng gần 1/100 so với đơn thư nhận được, có ủy ban không chuyển đơn thư nào...
Ông Lê Tiến Hào phân bua: "Cơ chế pháp luật của chúng ta có rất nhiều vấn đề. Có một vụ mà anh này vận dụng luật này, anh khác vận dụng luật khác, mỗi một thời kỳ lại thay đổi, ai cũng có lý. Cùng một dự án, anh thu đất tôi năm ngoái anh trả 10 nghìn, năm nay anh trả 20 nghìn, không được".
Theo ông Hào, do làm không đúng mới nảy sinh khiếu nại: "Cả trung ương và địa phương đều rất lúng túng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo".
Chủ nhiệm UB Pháp luật Nguyễn Văn Thuận đề nghị Chính phủ phải phân tích rõ bao nhiêu vụ việc do lỗi chủ quan từ quản lý và cán bộ nhũng nhiễu, bao nhiêu do phía người dân bị lôi kéo...
3. Báo Lao động phản ánh: “Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn tiếp công dân 1 lần/tuần”. Theo báo, UBND TP.Hà Nội vừa ban hành quy định tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên toàn địa bàn TP (thay thế các quyết định 36/2007/QĐ-UBND ngày 28.3.2007 của UBND TP.Hà Nội (cũ) và Quyết định 920/1999/QĐ-UB ngày 20.9.1999, Quyết định 741/2001/QĐ-UB ngày 1.6.2001 của UBND tỉnh Hà Tây).
Theo quy định mới, chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn mỗi tuần dành ít nhất 1 ngày tiếp công dân. Chủ tịch UBND cấp huyện mỗi tháng tiếp công dân ít nhất 2 ngày. Chủ tịch UBND TP và thủ trưởng các cơ quan nhà nước khác mỗi tháng tiếp công dân ít nhất 1 ngày.
Trong khi giải quyết các vụ việc phức tạp, kéo dài, thủ trưởng các cơ quan cấp sở, ngành, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức đối thoại trực tiếp với các bên liên quan. Đối với giải quyết khiếu nại lần đầu (khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính), trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền, người được giao xem xét, khiếu nại phải trình người có thẩm quyền ra quyết định thụ lý để giải quyết.
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định thụ lý. Đối với vụ việc phức tạp không kéo dài quá 45 ngày.
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai cũng không quá 45 ngày, kể từ ngày ra quyết định thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp cũng không kéo dài quá 60 ngày.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết hạn giải quyết theo quy định tại Điều 36 của Luật Khiếu nại, Tố cáo mà khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính không được giải quyết, người dân có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại toà án. Người dân cũng có thể làm tương tự trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai mà người khiếu nại không đồng ý.
Quy định này có hiệu lực từ ngày 9.10.2008.
4. Báo Tiền phong phản ánh: “Vedan phải nộp hơn 127 tỷ đồng phí môi trường”. Theo báo, trong 2 ngày 6 và 7/10, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên đã ký các văn bản về việc xử lý những sai phạm bảo vệ môi trường của Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam.
Đó là Quyết định 131/QĐ-XPHC về xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường đối với Công ty Vedan là 127.535.567.520 đồng; Quyết định số 1999/QĐ- BTN&MT về việc đình chỉ có hiệu lực Giấy phép xả nước thải vào nguồn của Công ty Vedan.
Theo đó, Công ty Vedan phải nộp phạt 267.500.000 đồng về 12 nội dung vi phạm bảo vệ môi trường như xả thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên đối với nhà máy sản xuất tinh bột biến tính của Công ty, từ 5 lần đến dưới 10 lần đối với nhà máy sản xuất bột ngọt và lysine, từ 5 lần đến dưới 10 lần đối với các nhà máy khác trong trường hợp thải lượng nước thải từ 50m3/ngày đến dưới 5000 m3/ngày; nộp không đầy đủ các số liệu điều tra, khảo sát, quan trắc và các tài liệu liên quan khác cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thải mùi hôi thối khó chịu trực tiếp ra môi trường; quản lý chất thải nguy hại không đúng quy định về bảo vệ môi trường; xả nước thải vào nguồn nước không đúng vị trí trong giấy phép; xả nước thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên; xả nước bùn vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên...
Đặc biệt, Thanh tra yêu cầu Công ty Vedan phải nộp khoản truy thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp là 127.268.067.520 đồng; đồng thời phải thực hiện việc nộp phí trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận được Quyết định 131.
Văn bản này cũng nêu rõ những biện pháp mà Công ty Vedan phải khắc phục hậu quả môi trường như tháo gỡ toàn bộ hệ thống đường ống, cống ngầm, máy bơm và các thiết bị có liên quan (trong thời hạn 1 tháng), cấm hoạt động xả chất thải, đình chỉ hành vi xả thải....
Trong công văn số 3880/BTN&MT-TCMT gửi UBND tỉnh Đồng Nai, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị UBND tỉnh ban hành theo thẩm quyền quyết định tạm thời đình chỉ hoạt động sản xuất của Công ty Vedan cho đến khi hoàn thành biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Kinh tế & Đô thị phản ánh về hoạt động công chứng tư ở Hà Nội: "Lợi thì có lợi…”. Theo báo, 6 Văn phòng công chứng tư của Hà Nội đã lần lượt đi vào hoạt động từ 2 tháng nay. Sự ra đời của các văn phòng này được coi như một giải pháp hữu hiệu, giúp giảm tải và thực hiện cải cách hành chính (CCHC) nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân khi đi công chứng. Tuy nhiên, mới chỉ thời gian ngắn hoạt động, không ít văn phòng công chứng tư đã bộc lộ nhược điểm xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do kinh nghiệm nghiệp vụ non yếu của một số cán bộ, nhân viên.
Một trong số ưu điểm nổi bật của loại hình văn phòng công chứng tư là sự nhanh chóng, nhiệt tình khi giải quyết nhu cầu công chứng của người dân. Nhưng "nhanh" đôi khi đi liền với "ẩu". Mới đây, tại Phòng công chứng Nhà nước số 5 (huyện Sóc Sơn) đã tiếp một trường hợp khách hàng đến yêu cầu công chứng khai nhận di sản thừa kế để phân chia tài sản. Hỏi ra mới biết, vị khách này đã từng đến một văn phòng công chứng tư để công chứng bản khai nhận này. Song, khi mang bản công chứng đó đến Phòng Tài nguyên và môi trường quận Cầu Giấy (Hà Nội) để hoàn tất hồ sơ, thì bị Phòng trả lại do phía văn phòng công chứng không thực hiện đúng trình tự, thủ tục công chứng loại văn bản này theo quy định của pháp luật. Được biết, để công chứng khai nhận di sản thừa kế, Luật quy định phải niêm yết công khai thông báo tại phường xã nơi người đó cư trú 30 ngày. Yêu cầu này là nhằm không để bỏ sót thành viên được hưởng di sản thừa kế. Nhưng tại một số văn phòng công chứng tư do không thông thạo quy định này hoặc vì "nôn nóng" muốn đẩy nhanh tiến độ giải quyết công việc, nên đã bỏ qua bước thủ tục cần thiết này.
Trong số các văn phòng công chứng tư, Văn phòng công chứng Hà Nội (tại A38 phố Hoàng Ngân, khu đô thị mới Trung Hòa, quận Cầu Giấy) được nhiều người đánh giá là khá nổi tiếng bởi cơ sở vật chất khang trang, trang thiết bị hiện đại, đồng bộ, tinh thần phục vụ nhiệt tình, chu đáo... Tuy nhiên, với nhiều "thượng đế", chỉ chừng ấy thôi thì vẫn chưa đủ. Chị Nguyễn Trang Nhung (ở Khu tập thể Xí nghiệp Thiết bị điện ảnh) nhà ở gần đó nên đã tìm tới đây để công chứng giấy ủy quyền mở tài khoản tại Công ty chứng khoán. Chị kể, chị đến văn phòng lúc 10h sáng, nhưng phải đến hơn 3h chiều mới xong. Chậm trễ như vậy là do văn phòng có quá nhiều yêu cầu rườm rà, phức tạp, vừa yêu cầu xuất trình giấy chứng minh thư nhân dân, lại vừa đòi hỏi hộ khẩu của cả hai bên. Tiền phí thì cao, chỉ công chứng có giấy ủy quyền mà mất tới 210.000 đồng. Riêng việc mua theo mẫu của văn phòng đã hết 100.000 đồng. Còn nếu muốn lấy trong ngày thì phải mất thêm 100.000 đồng.
Cũng với tâm lý e ngại khi đến với các văn phòng công chứng tư, ông Trần Văn Lũy (ở Khu đô thị mới Định Công, Hoàng Mai) cho rằng một số cán bộ văn phòng công chứng tư mới ra trường được nhận ngay vào làm việc, nên kinh nghiệm thẩm định hồ sơ, giấy tờ chưa nhiều. Thêm vào đó, tại các văn phòng công chứng vẫn chưa có hệ thống kết nối với các cơ quan tố tụng về những động sản và bất động sản bị hạn chế giao dịch hoặc cấm giao dịch. Đây là sơ hở dễ tạo điều kiện cho các đối tượng lừa đảo lợi dụng, đặc biệt với các giao dịch là động sản và bất động sản đang có tranh chấp, khiếu kiện.
Thêm một vấn đề "nhạy cảm" khác, đó là về lệ phí công chứng tại các văn phòng công chứng tư. Ngoài việc vẫn áp dụng việc thu phí công chứng theo mức thu quy định tại Thông tư liên tịch số 93/2001/TTLT/BTC-BTP ngày 21/11/2001, văn phòng công chứng còn được thỏa thuận thu thêm phí dịch vụ ngoài hợp đồng đối với khách hàng. Chính điều này khiến cho mỗi nơi thực hiện một kiểu và người chịu thua thiệt cuối cùng vẫn là các "thượng đế". Anh Nguyễn Kiên (ở Khu TT Bách Khoa) kể: "Tháng trước, tôi có đến văn phòng công chứng tư ở gần nhà đề nghị đến nhà công chứng giúp một hợp đồng đơn giản, đã có đầy đủ giấy tờ thủ tục. Nhưng khi đến làm việc, họ đòi thêm phí dịch vụ làm ngoài giờ hơn 1 triệu đồng, trong khi lệ phí công chứng chưa đến 300.000 đồng.
Hiện đã có tình trạng phòng công chứng tư thu phí gấp 10 lần nhà nước với những dịch vụ làm nhanh, dịch vụ làm ngoài giờ, công chứng tại nhà. Do đó, việc tăng cường "hậu kiểm" đối với doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này là cần thiết và Bộ Tư pháp cũng nên sớm ban hành mức khung phí dịch vụ mới tránh khỏi hiện tượng loạn phí như hiện nay.
Mặc dù còn bất cập, song việc ra đời văn phòng công chứng tư đã bước đầu tạo được sức ép cạnh tranh đáng kể với các phòng công chứng Nhà nước. Một trong những công chứng viên có kinh nghiệm lâu năm trong nghề này là ông Nguyễn Xuân Bang (Trưởng phòng công chứng số 6 tại Kim Đồng, Hoàng Mai) cũng cho rằng: Về lâu dài, khi các văn phòng công chứng tư khẳng định được nghiệp vụ chuyên môn, khẳng định được uy tín, trong tương lai sẽ là thách thức không nhỏ đối với hoạt động của các phòng công chứng Nhà nước.
2. Báo Gia đình phản ánh: “Nguy cơ “chết chìm” một bản án”. Theo báo, ngày 6/8/2001, TAND TP Thanh Hoá xét xử sơ thẩm vụ án đòi nợ giữa nguyên đơn là ông Đặng Thanh Trì, trú tại phường Ngọc Sơn và bị đơn là ông Trương Minh Tuấn, trú tại 64 Hàng Đồng (TP Thanh Hoá). Theo đó, HĐXX buộc ông Tuấn phải trả cho ông Trì 177 triệu đồng.
Bởi không có kháng cáo, kháng nghị nên bản án có hiệu lực từ thời điểm đó, ông Hoàng Minh Quang - Đội trưởng Thi hành án TP Thanh Hóa và bà Lê Thị Hưng là chấp hành viên được giao thi hành án. Vậy nhưng, theo tố cáo của ông Trì thì sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông Quang, bà Hưng đã đề nghị ông đưa cho 6 triệu đồng với lý do tạm ứng thi hành án.
Không dừng lại, cả ông Quang và bà Hưng đã trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở địa chỉ 64 Hàng Đồng mà Đội thi hành án TP Thanh Hóa đang tạm giữ cho ông Tuấn, khiến việc thi hành án đi vào ngõ cụt suốt 7 năm qua.
Trong buổi làm việc với PV Báo GĐ&XH, ông Dương Thái Sơn - Trưởng thi hành án TP Thanh Hoá (người thay thế ông Quang bị kỷ luật - PV) cho biết: Hơn 7 năm trôi qua, vụ việc gần như vẫn giậm chân tại chỗ, ông Tuấn chỉ trả cho ông Trí theo kiểu... bố thí.
Vụ việc không xử lý ngay từ đầu một phần nguyên nhân là sai sót của lãnh đạo cơ quan thi hành án thời đó đã đem trả giấy tờ kê biên ngôi nhà 64 Hàng Đồng. Đây là việc làm sai nguyên tắc, khiến nguyên đơn chịu thiệt thòi, cơ quan thi hành án bất lực trong giải quyết vụ việc này. Trước những khó khăn trên, Thi hành án TP đã chuyển hồ sơ lên Thi hành án tỉnh Thanh Hoá để giải quyết, song chưa nhận được hồi âm.
Làm việc với chúng tôi, ông Lê Ngọc Vân - Phó trưởng Cơ quan Thi hành án tỉnh Thanh Hoá cho biết: Bản án đã có hiệu lực pháp luật, cơ quan Thi hành án TP có đủ thẩm quyền để giải quyết. Không phải thi hành án cấp dưới không làm được thì đẩy lên và “ép” thi hành án cấp trên giải quyết.
Còn ông Lê Đức Công - Phó Chủ tịch UBND TP Thanh Hoá (kiêm Trưởng ban chỉ đạo Thi hành án TP) thừa nhận về những bất cập của cơ quan thi hành án TP và cho biết, sẽ kiên quyết theo sát nhằm xử lý vụ án này trong thời gian sớm nhất.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 08/10/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ. Phòng Tổng hợp.