Điểm tin báo chí sáng ngày 28 tháng 01 năm 2015

28/01/2015
Trong các ngày 27/01 và đầu giờ sáng ngày 28/01/2015, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Đời sống và Pháp luật có bài Phạt tiền có ngăn nổi… ngoại tình?. Bài báo phản ánh: Sau đề xuất phạt 1-3 triệu với những người có “tội” ngoại tình do Bộ Tư pháp đưa ra, nhiều người cho rằng mức phạt đó quá ít, không đủ tính răn đe.

Theo đề xuất mới được Bộ Tư pháp đưa ra, người đang có vợ/ chồng mà kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng sẽ bị xử phạt từ 1-3 triệu đồng. Nhân tình biết người kia đã có vợ/ chồng mà vẫn chung sống cũng sẽ bị phạt mức tương đương. Trước thông tin này, nhiều người cho rằng đề xuất này không khác gì trò hề vì mức phạt quá thấp.

Chị Kiều (40 tuổi, Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội) cho rằng: “Mức phạt này quá ít, mấy ông cặp bồ toàn là những người giàu có cả, tiền kiếm hàng tháng có khi lên tới hàng trăm triệu. Phạt thế khác gì trò hề”. Theo chị Kiều, ngoài phạt hành chính, cần thông báo rộng rãi nơi làm việc, chính quyền địa phương để răn đe, kiểm điểm. Bởi hầu hết những người ngoại tình đều sợ bị công khai danh tính, sợ mất danh dự, ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Trong khi đó, anh M., người thừa nhận đang có “bồ nhí” ở Cầu Giấy, Hà Nội lại khẳng định, anh lo nhất là bị bắt gặp mình ngoại tình, có bằng chứng ngoại tình. “Xử phạt 1-3 triệu đồng thì quá đơn giản. Mỗi lần đưa bồ đi nhà hằng mua sắm còn hơn ấy chứ. Nhưng khi phạt thì phải ra chính quyền, trong khi cái mà đàn ông có phòng nhì như chúng tôi ngại nhất là vợ con biết. Bồ thì cũng chỉ là chơi bời thôi chứ ai dại gì bỏ vợ lấy bồ. Nếu có thế thật thì đã ly dị rồi chứ chờ đến người ta phạt làm gì”.

Anh M. cũng cho rằng, với những người ngoại tình kiểu công khai, thách thức dư luận thì phạt 1-3 triệu không nhằm nhò gì. “Nếu đã liên quan đến tình cảm thì khó có thể ngăn cản. Nếu muốn giảm số lượng các vụ ngoại tình thì cứ tăng mức hình phạt lên, may ra mới giảm được”.

Còn chị Minh Trang ở Thanh Xuân, Hà Nội lại chia sẻ: “Mấy tháng nay nghe loáng thoáng lão cặp bồ, tôi cất công theo dõi hàng ngày để bắt tận tay day tận trán.” Bắt được chồng đưa bồ vào nhà nghỉ, chị Trang định đưa anh ta lên phường tố cáo nhưng nghĩ lại anh ta làm gì có tiền mà nộp, mọi chi tiêu sinh hoạt trong gia đình nay chỉ mình chị xoay xở. Nộp phạt chẳng khác nào tự bỏ tiền túi ra, mà làm vậy thì chị xấu mặt chứ còn ai vào đây.

Không những thế, chị Trang còn băn khoăn một điều là đề xuất mà Bộ Tư pháp mới đưa ra nêu rõ đối tượng là những người đã có vợ/ chồng công khai chung sống với người khác, còn chồng chị mới chỉ dẫn bồ vào nhà nghỉ, còn lại vẫn về nhà sinh hoạt bình thường với vợ con thì phạt thế nào được.

2. Báo Điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông có bài Sửa chuyện “ai cũng được phạt báo chí”: Sao không chọn cách đơn giản?. Bài báo phản ánh: Trước đó khoảng 1 năm trước đây, nhiều báo, trong đó có Infonet đồng loạt đưa tin về việc nhiều bộ, ngành soạn thảo nghị định có nội dung xử phạt thông tin sai sự thật, Chính phủ đã có 2 công văn yêu cầu Bộ Tư pháp và các ngành liên quan xử lý vấn đề. 

Trải qua nhiều cuộc bàn thảo, Bộ Tư pháp đã gửi tờ trình kèm theo dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước liên quan đến hành vi đăng, phát, cung cấp, đưa tin, công bố thông tin sai sự thật (gọi tắt là dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung).

Tuy nhiên, dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung này cũng còn nhiều vấn đề phải tranh cãi. Theo thông tin từ Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ đã gửi văn bản thể hiện quan điểm của mình về vấn đề này. Theo đó, Bộ Thông tin và Truyền thông cho rằng việc bổ sung điều 8a vào Nghị định 159/2013/NĐ-CP là bất hợp lý.

Cũng có quan điểm cho rằng việc bổ sung thêm điều 8a vào Nghị định 159/2013/NĐ-CP sẽ gây “rối” trong công tác xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực báo chí, xuất bản...

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Không có tiền làm cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bài báo phản ánh: Dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được xem là hạt nhân của đề án Tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020 (gọi tắt là Đề án 896). Đây cũng là một bước quan trọng để thực hiện Luật Hộ tịch và Luật Căn cước công dân vào năm 2016. Thế nhưng dự án này đang bị mắc kẹt với bài toán về nguồn vốn.

Tại cuộc họp tổng kết công tác năm 2014 của Ban chỉ đạo 896 chiều 27-1, Bộ Công an (đơn vị chủ trì xây dựng dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư) cho biết dự án đã được xây dựng xong nhưng chưa thể phê duyệt vì chưa có tiền. Theo đề xuất của Bộ Công an, để thực hiện dự án này dự kiến cần hàng ngàn tỉ đồng.

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đề nghị Bộ Công an trước tết âm lịch phải tổ chức cuộc họp để đưa ra phương án về nguồn vốn thực hiện dự án này trình Chính phủ phê duyệt. Vì nếu không có cơ sở dữ liệu này không thể thực hiện hai luật: Hộ tịch và Căn cước công dân. Tháo gỡ nguồn vốn là vấn đề cấp thiết cần làm ngay, không để vì thiếu vốn mà đình trệ việc này. Nếu xã hội hóa được, thu lại nguồn thu được mà vẫn đảm bảo an ninh thì rất đáng hoan nghênh. Việc thu thập các cơ sở dữ liệu phải dựa trên cơ sở dữ liệu sẵn có, hạn chế việc làm phiền người dân và phải đảm bảo hiệu quả tiết kiệm.

4. Báo Hải Quan Online có bài Lo ngại tình trạng thương mại hóa mang thai hộ. Bài báo phản ánh: Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) có hiệu lực từ 1-1-2015 có quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo khiến nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn vui mừng. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến lo ngại xoay quanh những quy định bắt buộc người có nhu cầu mang thai hộ phải tuân theo. Phóng viên Báo Hải quan đã có cuộc trao đổi với bà Khuất Thu Hồng- Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội về vấn đề này.

Quy định cho phép mang thai hộ đối với nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn là niềm vui, nhưng cũng có ý kiến cho rằng, để thực hiện việc này không dễ. Quan điểm của bà về việc này thế nào?

Khi cho phép mang thai hộ, tức là phát sinh quan hệ dân sự giữa hai bên, một bên có nhu cầu và bên kia được thuê. Trong mối quan hệ này sẽ phát sinh nhiều mâu thuẫn khó giải quyết nếu không có sự can thiệp của cơ quan thứ ba.

Trước hết, người được thuê mang thai hộ quyến luyến không muốn trả con. Tình huống thứ hai là thỏa thuận giữa hai bên không rõ ràng, thỏa đáng, dẫn đến tranh chấp. Tiếp đến, trong quá trình mang thai hộ, có thể dẫn đến những tình huống phức tạp, ảnh hưởng đến sức khỏe thai phụ, nếu gia đình người mang thai hộ không hài lòng, có khiếu kiện, các cơ quan chức năng sẽ rất khó giải quyết vì chưa có chế tài cụ thể. Bên cạnh đó, Luật quy định người mang thai hộ phải là người trong cùng huyết thống (cùng hàng) trong vòng 3 đời, sẽ rất khó thực hiện vì trong bối cảnh sinh đẻ kế hoạch hiện nay mỗi gia đình chỉ duy trì có từ 1-2 con. Ngoài ra,  Luật yêu cầu người có nhu cầu mang thai hộ phải có xác nhận, chứng thực từ cấp có thẩm quyền về quan hệ ruột thịt giữa hai bên, nhưng để thực hiện điều này không dễ. Trong 10 trường hợp, theo tôi cùng lắm họ chỉ đáp ứng chuẩn được 1- 2 trường hợp. Điều này khác nào đánh đố những cặp vợ chồng hiếm muộn có nhu cầu mang thai hộ.

Khi chưa được Luật hóa, nhiều cặp vợ chồng vẫn thực hiện việc mang thai hộ qua các "cò" môi giới. Bà đánh giá với những quy định của Luật có hạn chế được tình trạng này?

Tôi cho rằng, quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là cần thiết, nhưng xét về mức độ xã hội, việc này mang lại lợi ích nhiều hơn đối với người có tiền chứ không phải người ít tiền, người nghèo. Nói cách khác, chỉ những người có tiền mới có được đứa con của mình bằng phương pháp mang thai hộ, những người nghèo đi bán cái bụng của mình. Đây sẽ là thị trường béo bở cho các đối tượng "cò", môi giới. Do vậy nếu cơ quan quản lý không có quy định cụ thể xử lý đối tượng "cò", tương lai đối tượng này sẽ "phình" ra rất lớn, hưởng lợi từ cả hai bên. Thị trường đó rất sôi động, rất đáng sợ, và hậu quả thì không thể lường hết.

Nhiều ý kiến lo ngại việc mang thai hộ sẽ ảnh hưởng đến tâm, sinh lý của những đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp này? Quan điểm của bà về vấn đề này ra sao?

Khi biết mình không phải là con ruột của những người đang nuôi dưỡng dễ gây ra những cú sốc về tâm lý cho trẻ là một thực tế mà xã hội phải đối mặt. Không có điều gì có thể giữ kín vĩnh viễn. Thực tế ở các quốc gia khác cũng có những quy định mang tính ràng buộc để giữ kín bí mật thông tin, nhưng sau cùng đứa trẻ vẫn biết. Tôi cho rằng khi biết được điều này, chắc chắn đứa trẻ sẽ mặc cảm, sẽ sốc nhưng rồi cũng phải đối mặt. Vấn đề là làm thế nào để chúng sẵn sàng đón nhận sự thật này, điều đó tùy thuộc vào kỹ năng của các bậc cha mẹ. Bên cạnh đó có một thực tế nữa là nhiều bậc phụ huynh do muốn giấu kín "xuất thân" của đứa trẻ đã dùng nhiều biện pháp tiêu cực để người mang thai hộ tránh thật xa đứa trẻ.

Vậy theo bà, việc quản lý phải được tiến hành ra sao để việc mang thai hộ đúng là vì mục đích nhân đạo, hạn chế thấp nhất những hệ lụy phát sinh?

Khi luật pháp thừa nhận mang thai hộ, đồng nghĩa phải quản lý rất chặt chẽ, phải có chế tài quy định cụ thể, bởi mục đích của mang thai hộ là nhân đạo. Tuy nhiên, việc mang thai hộ hiện bị biến tướng, thương mại hóa phần nào. Do vậy, theo tôi, nếu muốn quản chặt việc mang thai hộ, ta phải thừa nhận cả việc mang thai hộ vì mục đích thương mại mới quản lý được. Nếu chỉ vì mục đích nhân đạo như hiện nay thì khi có tranh chấp, hay vi phạm chúng ta chưa biết xử lý theo chế tài nào. Bên cạnh đó, tôi cho rằng, đối tượng mang thai hộ cũng nên quy định rộng hơn. Việc mang thai hộ cũng phải có sự tham gia của luật sư, hợp đồng phải được các cơ quan pháp luật công nhận, nếu có phát sinh tranh chấp phải được cơ quan chức năng giải quyết, chứ không phải chuyện họ hàng cãi nhau. Ngoài ra, việc đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ mang thai hộ về y tế, bảo hiểm cần được làm rõ vì ai biết được, sau khi mang thai hộ những ảnh hưởng về mặt sức khỏe, tinh thần mà đội ngũ này phải chịu.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Thanh niên Online đưa tin Mở thẩm quyền điều tra cho một số lực lượng. Bài báo phản ánh: Ngày 27.1, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức phiên họp thường trực mở rộng thẩm tra dự án luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự. Trình bày tờ trình của Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quý Vương cho biết dự luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự đã bổ sung thẩm quyền điều tra của một số cơ quan thuế, kiểm ngư, Ủy ban Chứng khoán nhà nước, nhưng đang có những quan điểm khác nhau.

Cũng trong dự thảo luật này, Bộ Công an đề xuất bổ sung quy định công an xã, phường, thị trấn được tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu để hỗ trợ cơ quan điều tra. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm nghiên cứu dự án luật của Ủy ban Tư pháp, quyền hạn nhiệm vụ của công an xã đã được quy định tại Pháp lệnh công an xã và không được coi là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Trên thực tế, trình độ công an xã ở nhiều địa phương còn hạn chế nên nếu giao thêm một số hoạt động điều tra ban đầu sẽ vượt quá khả năng của họ, dẫn đến sai lệch trong điều tra vụ án hình sự, gây khó khăn cho cơ quan điều tra chuyên trách, bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Do đó, nhóm nghiên cứu đề nghị chỉ quy định giao công an xã bảo vệ hiện trường và thông báo cho cơ quan chuyên trách.

Từ kinh nghiệm làm tố tụng lâu năm của mình, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cũng ủng hộ việc chưa tăng thẩm quyền cho công an xã.

2. Báo Tuổi trẻ Online có bài Cần có cơ sở giam riêng người chờ án tử hình. Bài báo đưa tin: Là một trong những nội dung đáng chú ý của dự án Luật tạm giữ, tạm giam vừa được Chính phủ gửi trình để Ủy ban Tư pháp thẩm tra (27-1). 

“Riêng đối với những người bị kết án tử hình, bản án đã có hiệu lực pháp luật, đang chờ thi hành án thì nên quản lý giam giữ tập trung tại các cơ sở giam giữ riêng để tạo thuận lợi cho việc quản lý giam giữ và thi hành án đối với họ.

Trên cơ sở đó, dự thảo luật đã bổ sung một khoản trong điều 51 quy định căn cứ quy hoạch do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, bộ trưởng Bộ Công an quyết định thành lập cơ sở giam giữ riêng người đang chờ thi hành án tử hình”, bản thuyết trình dự án luật nêu rõ.

Theo bản thuyết trình, “đối với người bị kết án tử hình nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì nên tiếp tục tạm giam tại trại tạm giam để phục vụ cho các hoạt động tố tụng của cơ quan có thẩm quyền, trường hợp người bị kết án tử hình có quyết định ân giảm xuống tù chung thân hoặc bản án phúc thẩm giảm xuống tù chung thân thì thủ trưởng cơ sở giam giữ chuyển người đó đến nơi giam giữ người chờ chấp hành án phạt tù; trường hợp hủy án để điều tra lại thì thủ trưởng cơ sở giam giữ chuyển người bị kết án tử hình đến buồng tạm giam để điều tra”.

Liên quan đến việc quản lý bị án tử hình, một tổng kết mới đây được Viện KSND tối cao trình bày tại hội thảo của Ủy ban Tư pháp cho thấy có tình trạng bỏ trốn, tìm cách tự sát và thậm chí là người bị kết án tử hình có thai trong quá trình tạm giam.

Các văn bản pháp quy hiện hành cũng chưa có quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đồng tính hoặc người có khiếm khuyết về giới tính...

Ngoài ra, dự án luật này còn thể chế hóa quy định của Hiến pháp cũng như các công ước quốc tế mà VN tham gia ký kết về bảo vệ quyền con người.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Vụ dược sĩ bị cho nghỉ việc ở Bình Phước: Thu hồi quyết định sa thải sai luật. Sáng 27-1, Trung tâm Giám định Y khoa - Pháp y (trước đây là Phòng Giám định y khoa - GĐYK) thuộc Sở Y tế tỉnh Bình Phước đã mời dược sĩ Trần Thị Kiều Oanh đến nhận quyết định thu hồi quyết định sa thải dược sĩ Oanh vào tháng 9-2013.

Trước đó báo Pháp Luật TP.HCM và nhiều báo, đài phản ánh: Dược sĩ Oanh tố cáo BS Đoàn Đức Loát, Trưởng phòng GĐYK, cùng một số người đã nhũng nhiễu nhằm nhận tiền của người tới khám bệnh, thu chi tài chính sai nguyên tắc… nên bị sa thải trái pháp luật. Đến tháng 9-2013, ông Loát dùng quyền trưởng phòng tiếp tục ra quyết định buộc thôi việc bà Oanh với lý do tố cáo sai sự thật!

Sau đó, Ủy ban Kiểm tra tỉnh Bình Phước khẳng định Phòng GĐYK áp dụng hình thức sa thải dược sĩ Oanh không có căn cứ. Từ đó Ủy ban Kiểm tra đề nghị Thường trực Tỉnh ủy Bình Phước yêu cầu Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh, lãnh đạo UBND tỉnh Bình Phước chỉ đạo thu hồi quyết định sa thải dược sĩ Oanh đồng thời kiểm điểm, xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân liên quan.

Ngày 13-1-2015, ông Nguyễn Huy Phong - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước đã chỉ đạo giám đốc Sở Y tế tỉnh Bình Phước thu hồi quyết định sa thải dược sĩ Oanh.



File đính kèm