I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Cảnh cáo trưởng phòng tư pháp cắt dán chữ ký. Bài báo phản ánh: Ngày 6-1, ông Đồng Văn Cưng, chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Thành ủy Bạc Liêu, cho biết Ban thường vụ Thành ủy đã họp xem xét hình thức kỷ luật ông Trần Quốc Hùng, trưởng Phòng tư pháp TP Bạc Liêu, với hình thức cảnh cáo.
Sai phạm của ông Hùng là đã chỉ đạo và cùng cấp dưới cắt dán chữ ký của ông Trà Văn Bắc, phó chủ tịch UBND TP Bạc Liêu, vào bản thành tích cá nhân đề nghị Hội Luật gia trung ương khen thưởng năm 2013. Sau khi cắt dán chữ ký của phó chủ tịch UBND TP Bạc Liêu xong, bản thành tích này được đưa sang văn phòng UBND TP đóng dấu và gửi lên Hội Luật gia VN. Hội Luật gia VN sau đó đã tặng bằng khen cho ông Hùng.
Trước đó, Hội Luật gia tỉnh Bạc Liêu đã đề nghị UBND tỉnh khen thưởng ông Trần Quốc Hùng. Hồ sơ khen thưởng này được ông Trà Văn Bắc ký xác nhận nhưng hồ sơ khen thưởng cấp tỉnh chưa được xem xét. Ông Hùng đã cắt chữ ký trong hồ sơ này để dán sang hồ sơ thi đua gửi Hội Luật gia trung ương đề nghị khen thưởng.
2. Báo Tuổi trẻ Online có bài Bến Tre: sai sót nhiều ở phòng công chứng. Bài báo phản ánh: Thời gian qua, một số công chứng viên trên địa bàn tỉnh Bến Tre liên tục để xảy ra sai sót khi công chứng giấy tờ, nhưng đến khi sự việc bị đổ bể thì chống chế là do “không xem kỹ hồ sơ”.
Doanh nghiệp (DN) tư nhân Kiều Nga (huyện Châu Thành) do bà Trần Thị Kiều Nga đứng tên, được cấp phép đầu tư và khai thác chợ Tân Phú từ năm 2010-2020. Tháng 9-2010, Sở Tài nguyên - môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần diện tích đất chợ là hơn 1.000m2 với ghi chú nguồn gốc đất do Nhà nước cho thuê từ năm 2010-2020. Thế nhưng tháng 2-2012, DN Kiều Nga lại đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp cho ông N.H.M. (ngụ TP Bến Tre) với giá 200 triệu đồng và được Phòng công chứng Đồng Khởi công chứng hợp đồng trái luật này.
Bà Võ Thị Nhu, phó Chi cục Quản lý đất đai, Sở Tài nguyên - môi trường tỉnh Bến Tre, cho rằng hành vi của DN Kiều Nga hoàn toàn sai với pháp luật nhưng không hiểu sao văn phòng công chứng lại thừa nhận là đúng pháp luật bằng việc công chứng nói trên.
Cuối tháng 6-2013, UBND tỉnh Bến Tre phát hiện hàng loạt DN nước ngoài thuê đất chui trên địa bàn. Trong đó, có nhiều hợp đồng người dân cho DN nước ngoài thuê đất được công chứng tại các phòng công chứng nhà nước lẫn tư nhân. Theo quy định, DN nước ngoài thuê đất phải thông qua Sở Tài nguyên - môi trường trình UBND tỉnh quyết định, chứ người dân không được tự ý đi công chứng cho thuê đất. Theo Sở Tài nguyên - môi trường tỉnh Bến Tre, có đến 24 hợp đồng trái luật như vậy được Phòng công chứng số 1 (Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre) chứng nhận cho người dân được quyền lấy đất cho doanh nghiệp nước ngoài thuê. Phòng công chứng Đồng Khởi cũng công chứng ba hợp đồng cho thuê đất trái quy định như vậy.
Gần đây, ngày 11-11-2013, bà Huỳnh Thị Kim Hân và ông Nguyên Văn Nguyên (huyện Mỏ Cày Bắc) đến Phòng công chứng số 1 và Phòng công chứng Đồng Khởi thực hiện hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng cùng một diện tích đất cho hai cá nhân khác nhau. Do không kiểm tra nên cả hai phòng công chứng đều ký...
Ông Lê Minh Hiền, phó giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre, cho biết bất cập lớn nhất của hoạt động công chứng tại Bến Tre là chưa có phần mềm kiểm soát những cá nhân và tổ chức đã thực hiện công chứng ở các đơn vị khác. Khi đủ giấy tờ hợp lệ thì công chứng viên ký chứ không thể biết được trước đó cá nhân, tổ chức này đã công chứng ở đâu với nội dung thế nào. “Những sai sót kể trên sở sẽ cho kiểm tra lại. Luật hiện hành quy định rất cụ thể trách nhiệm của công chứng viên. Công chứng viên sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu để xảy ra sai sót. Nếu liên tục để xảy ra sai sót sở sẽ căn cứ quy định để rút giấy phép hoạt động của văn phòng công chứng có liên quan” - ông Hiền nói.
3. Báo Pháp luật Việt Nam Online có bài Luật khó bảo vệ trẻ em vì "vướng" tỷ lệ thương tích?. Bài báo phản ánh: Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp cũng thừa nhận tại Việt Nam, trong khi người lao động có công đoàn; nông dân, người cao tuổi, thanh niên… đều có các hội đại diện bảo vệ quyền lợi của họ thì trẻ em lại chưa có một đơn vị, tổ chức nào đại diện bảo vệ.
Theo luật định, đối với các hành vi bạo hành, xâm hại trẻ em, phải giám định tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên mới phạt tù. Nhưng trẻ em không có khả năng tránh đòn tự bảo vệ, phản kháng, chưa kể đến những sang chấn tinh thần dẫn tới những hậu quả về sau mà không thể đo đếm cụ thể được. Liệu cách áp dụng mức tỷ lệ thương tật 11% có phù hợp với trẻ em?
Không sai khi nói năm 2013 vừa qua là năm có nhiều vụ bạo hành trẻ em nhức nhối nhất. Những thân thể, tinh thần bé bỏng mang đầy thương tích, hoảng loạn dưới bàn tay của người lớn.
Những vụ bạo hành trẻ em đã nhận được nhiều sự quan tâm nhất của cộng đồng, báo chí trong năm 2013, bao gồm: vụ các bảo mẫu Lê Thị Đông Phương và Nguyễn Lê Thiên Lý tại cơ sở mầm non Phương Anh ở quận Thủ Đức, TP.HCM có hành vi tát, đánh vào lưng, bóp cổ, bịt mũi hay dốc đầu trẻ khi cho ăn; vụ cơ quan chức năng P.Tân Hưng, Q.7, TP.HCM tổ chức giải cứu cháu bé Trịnh Nguyễn Thành Đức sinh năm 2010 sau khi phát hiện cháu bị người thân đánh đập tàn nhẫn, ép cháu đi xin ăn...
Điều đáng nói là các vụ này dù có vụ bị khởi tố nhưng là với tội danh khác, còn tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì không, bởi mức tỷ lệ thương tật của nạn nhân chưa đến 11% theo luật định.
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Doãn Mậu Diệp. Theo ông Doãn Mậu Diệp, Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, đối với các hành vi bạo hành, xâm hại trẻ em không thể áp dụng quy định phải giám định tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên mới phạt tù như theo Bộ luật Hình sự hiện nay.
“Trẻ em không có khả năng tránh đòn tự bảo vệ, phản kháng lại khi bị đánh nên không thể áp dụng mức tỷ lệ thương tật 11%. Chưa kể những hành vi bạo hành, xâm hại đối với trẻ em có thể không để lại thương tích nhưng lại có những sang chấn tinh thần dẫn tới những hậu quả về sau mà không thể đo đếm cụ thể được” - ông Doãn Mậu Diệp nhấn mạnh.
Đồng quan điểm này, Tiến sỹ Đỗ Thị Ngọc Phương - Phó Viện trưởng Viện Dân số, gia đình và trẻ em cho rằng, trẻ em không thể tự vệ khi bị bạo hành và các dấu hiệu bị bạo hành cũng khó nhận biết được ở trẻ em, nhất là những sang chấn về tinh thần, nên cần quy định cụ thể hơn về các hành vi xâm hại, bạo hành trẻ em chứ không nên dựa trên tỷ lệ thương tích. Luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em đang được sửa đổi, bổ sung. Để thay đổi những khiếm khuyết hiện nay trong luật định thì những quy định cụ thể về các hành vi bạo hành, xâm hại trẻ em về thể xác và tinh thần phải được nêu rõ để có thể nghiêm trị những hành vi bạo hành, xâm hại trẻ em dưới mọi hình thức.
Ở Việt Nam vẫn tồn tại tâm lý con cái được coi là “của cải” của cha mẹ, là chỗ dựa khi về già, vì vậy cha mẹ thường đặt nhiều kỳ vọng vào con cái và sẵn sàng áp dụng nhiều biện pháp, áp đặt quyền lực “trên - dưới” để đạt được điều đó. Vì vậy, bạo hành trẻ em thường đến từ chính cha mẹ trẻ. Trong khi bạo lực đối với trẻ em gia tăng thì hiện nay lại chưa có một cơ quan nào của Chính phủ chuyên tiếp nhận và xử lý những thông tin phản ánh về những vụ bạo hành.
Sở dĩ có vấn đề này, theo phân tích của bà Lê Hồng Loan - Trưởng Chương trình Bảo vệ Trẻ em của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc tại Việt Nam, vì Việt Nam chưa quy định bắt buộc về việc thông báo về xâm hại trẻ em. Trong khi tại nhiều quốc gia đã có quy định gia đình, giáo viên, cán bộ y tế, công an là những người bắt buộc phải thông báo về bạo hành, xâm hại trẻ em.
4. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Xử lý nghiêm nếu mang thai hộ không vì mục đích nhân đạo. Bài báo phản ánh: Tại TPHCM, Vụ Các vấn đề xã hội - Văn phòng Quốc hội vừa tổ chức hội nghị khu vực phía Nam lấy ý kiến về Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi). Góp ý về vấn đề mang thai hộ, luật sư Nguyễn Văn Hậu (Phó Chủ tịch Hội Luật gia TPHCM) đồng ý với quy định tại khoản 22 Điều 8 của dự thảo cho phép một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con. Việc cho phép này giúp tránh tình trạng mang thai hộ “chui” hay đẻ thuê. Tuy nhiên, cần có chế tài cụ thể, xử lý nghiêm các trường hợp mang thai hộ không vì mục đích nhân tạo.
Đối với vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài, theo luật sư Nguyễn Văn Hậu, hiện nay việc ly hôn của một bên là công dân Việt Nam và một bên là công dân nước ngoài đang gặp khó khăn do thiếu nhiều cơ chế pháp lý. Do vậy, ông đề nghị trong Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) cần quy định thêm về vấn đề này và bổ sung theo hướng tạo điều kiện cho công dân trong nước thực hiện quyền ly hôn chính đáng của mình.