I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người đưa tin có bài 'Chỉ mặt' tham nhũng nghìn tỷ, thi hành án thu ... 'vài xu'. Bài báo phản ánh: Có một thực tế tồn tại ở công tác thi hành án trong các đại án tham nhũng là số tiền mà các bị cáo tham ô lên tới con số nghìn tỷ đồng, trách nhiệm của các bị cáo là phải bồi hoàn số tiền tham nhũng nhưng trong quá trình thi hành án, tiền thu về chả đáng là bao so với số tiền họ đã lấy của Nhà nước.
Đau đớn hơn, một số chính khách còn cho rằng, thực tế đó đang diễn ra tình trạng nhiều kẻ đã lợi dụng chức vụ để tham nhũng trong khi thực thi các vụ án tham nhũng và đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cập trên.
Việc nhiều đại án tham nhũng được đưa ra xét xử, như vụ án tham nhũng xảy ra tại Công ty cho thuê tài chính II (ALC II) trực thuộc Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam; vụ án Tham ô tài sản, Cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam và thời gian tới, nhiều vụ án khác sẽ được đưa ra xét xử là vụ án tại ngân hàng ACB liên quan đến Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên)...
Án đã tuyên và dư luận thì đặt ra câu hỏi, số tiền mà họ tham nhũng và gây thất thoát Nhà nước liệu có thu hồi được? Theo tìm hiểu của PV thì những vụ án trước đó như Lã Thị Kim Oanh, Tăng Minh Phụng... đều ở tình trạng tham ô nghìn tỷ, thi hành án thu về ... vài xu. Họ đã bị đi tù, bị thi hành án tử, vậy là xong sao? Người ta bảo rằng, Tăng Minh Phụng, Lã Thị Kim Oanh tham ô nhỏ như thế, không thu được thì những nghìn tỷ sau này, thu kiểu gì?
Một chuyên gia pháp lý cho biết, hiệu quả công tác truy thu tiền tham nhũng trong các vụ án tham nhũng ở nước ta hiện rất thấp. Bình quân chỉ đạt 20% số tiền buộc phải thu hồi, có nhiều vụ án thu được cũng chỉ đạt tầm 10%. Đây là một nghịch lý khó hiểu, tồn tại lâu nay. Do đó, có chính khách lo ngại, đặt ra thi hành án dân sự trong các vụ án tham nhũng chỉ là hình thức, xem ra là có cơ sở.
Trao đổi với PV, ĐBQH Nguyễn Thị Khá thừa nhận, đó là một thực tế đã tồn tại rất lâu, phản ánh sự yếu kém trong công tác thi hành án các vụ án tham nhũng của nước ta. Vấn đề này đã được ĐBQH Nguyễn Thị Khá đặt ra và chất vấn trước Quốc hội từ nhiều khóa nay nhưng đến giờ nó vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ, chưa có câu trả lời chính thức từ phía cơ quan chức năng. Theo bà Khá, sự yếu kém trong việc thi hành án dân sự các vụ án tham nhũng dẫn đến số tiền thu về không là bao so với số tiền mà các bị cáo đã tham nhũng dẫn tới gây thất thoát ngân sách Nhà nước.
Nữ ĐBQH này cho rằng, nguyên nhân để xảy ra tình trạng trên xuất phát từ công tác xử lý pháp luật, người chịu trách nhiệm thực hiện không thực hiện đến nơi đến chốn. Không có biện pháp quyết liệt, quy trách nhiệm dẫn tới người thực thi làm việc không triệt để. Đặc biệt, trong khi thi hành án tham nhũng cần thiết phải quy trách nhiệm cá nhân, không thể để chuyện làm đến đâu cũng được.
Thực tế, số tiền thu về được trong các vụ án tham nhũng chỉ được một phần nhỏ so với số tiền tham nhũng và ĐBQH Nguyễn Thị Khá cho rằng, có vấn đề trong công tác thi hành án và bà cho rằng thực tế đang tồn tại hiện tượng phạm tội chồng lên tội phạm. Có nghĩa là người thi hành án dân sự trong vụ án tham nhũng cũng có khả năng tham nhũng trong khi thi hành án. Họ cố tình bưng bít thông tin hoặc làm không đến nơi đến chốn dẫn tới không thể truy thu số tiền mà các bị cáo buộc phải bồi hoàn lại cho Nhà nước. Đây là nguyên nhân nguy hiểm nhất, luật của chúng ta "còn hở" nên để có những kẻ cơ hội đục nước béo cò, cần thiết phải có biện pháp ngặt nghèo hơn để chống lại thực tế này.
Ngoài ra, một nguyên nhân nữa dẫn tới việc thi hành án không truy thu được số tiền mà các bị cáo đã tham nhũng là vì số tiền đó đã được các bị cáo tìm cách tẩu tán từ trước hoặc số tiền này đã được ăn tiêu vô tội vạ nên trên thực tế số tiền trên đã không còn trên danh nghĩa của bị cáo nữa.
"Trong vụ án tại Vinalines, tôi thực sự rất phẫn nộ trước việc bị cáo Dương Chí Dũng nói rằng, số tiền mua hai căn nhà cho vợ bé của bị cáo này là lấy tiền của vợ cả. Đây là một việc không thể xảy ra trên thực tế, cách biện minh của bị cáo Dương Chí Dũng tại phiên tòa là đại diện cho thủ đoạn cố tình bao che, biển thủ, chuyển đổi tiền tham nhũng của những bị cáo trong các vụ án tham nhũng. Chính vì điều này, trong công tác xác minh tài sản, cần thiết phải có sự quyết liệt, thông minh nhằm lột trần được thủ thuật của các bị cáo", bà Khá phân tích.
Cũng liên quan đến hiện trạng này, Viện trưởng VKSNDTC Nguyễn Hòa Bình từng cho biết, hy vọng thu hồi 100% thất thoát là khó thực hiện. Chúng ta có một hạn chế là chỉ khi nào những tài sản được chứng minh là bất hợp pháp, phạm tội thì mới được thu hồi. Có một thực tế, công tác thi hành án chẳng kể dân sự, hay hình sự, nhất là với các án tham nhũng này là rất khó khăn. Dù biết là số tiền tham nhũng nhiều nhưng biết thu ở đâu? Ngay khi mới phạm tội, kẻ tham nhũng đã tìm cách tẩu tán tài sản. Nào đứng tên vợ, tên con, tên người thân, nhất là gửi tại các ngân hàng ở nước ngoài.
2. Báo Đời sống và Pháp luật có bài Bộ trưởng kêu khổ, dân biết kêu ai?. Bài báo phản ánh: Bộ trưởng kêu khổ vì áp lực xây dựng pháp luật, người dân thì “than khóc” vì những quy định “từ trên trời rơi xuống”.
Việc một Bộ trưởng thẳng thắn thừa nhận: “Nhiều khi anh em viết thế nào thì mình cứ ký thế, không thể đọc hết được” đã dấy lên luồng ý kiến cho rằng, những người đứng đầu bộ, ngành đang viện lý do “né” trách nhiệm.
Tại phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật của Chính phủ vừa qua, Bộ trưởng bộ KH&ĐT Bùi Quang Vinh cho rằng, vì áp lực công việc quá lớn có nhiều Nghị định, Thông tư do cấp dưới xây dựng, lãnh đạo các bộ, ngành cũng như bộ KH&ĐT cũng không thể kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng được.
Ông Bùi Quang Vinh kiến nghị: “Công việc điều hành của các bộ, ngành, Chính phủ rất nặng nề, do đó, các đồng chí xem phân cấp, phân quyền như thế nào để cấp Trung ương có thời gian hơn cho xây dựng pháp luật”. Ông Vinh nhấn mạnh vai trò tư pháp, pháp chế ở địa phương hiện nay quá yếu, công tác kiểm soát luật không được coi trọng, không ít người điều hành ở địa phương không nắm được luật một cách vững chắc. Ông Vinh kiến nghị, các sở nên có phòng pháp chế, làm tham mưu cho lãnh đạo.
Đồng tình với quan điểm của ông Vinh, Bộ trưởng bộ LĐ-TB&XH, bà Phạm Thị Hải Chuyền cũng cho rằng, cần tăng cường bộ phận pháp chế cho các bộ, ngành bởi khối lượng văn bản của một bộ là quá lớn. Nhiều khi lãnh đạo cũng chỉ có thời gian đọc lướt, không được kỹ trước khi trình Thủ tướng vì không có thời gian!?
Liên quan đến chất lượng và tiến độ ban hành các luật, nghị định, Bộ trưởng bộ KH&CN Nguyễn Quân cho rằng, nhiều khi là do ý thức, tinh thần trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan. Có nhiều Nghị định đến hạn trình Chính phủ rồi nhưng một số Bộ vẫn không có ý kiến góp ý thì Bộ chủ quản vẫn phải trình. Do đó, có nhiều Nghị định trình thì đúng hạn, khi Thủ tướng ký ban hành bị chậm là do chưa có đủ ý kiến của các Bộ. Bên cạnh đó, ông Quân cho rằng, kinh phí làm văn bản cũng rất khó khăn, làm mất thời gian nhưng chi phí không đáp ứng được. Ông Quân kiến nghị, cần có định mức cao hơn, bởi thực tế có văn bản ban hành nhưng trước đó không có điều kiện để tổ chức hội nghị, hội thảo nhiều để tổng hợp được ý kiến chuyên gia nên chất lượng không cao.
Trước những kiến nghị của các Bộ trưởng nói trên, trao đổi với PV báo Đời sống và Pháp luật, nhiều ĐBQH và người dân cho rằng, các quy định pháp luật hiện hành dường như đẩy khó cho người dân và dễ cho cơ quan quản lý. Cũng vì thế mà hàng loạt những Thông tư, Nghị định “từ trên trời rơi xuống” trong khi người soạn thảo văn bản như... ngồi trên mây. Các Bộ trưởng còn kêu khổ thì dân biết kêu ai?!
Trong năm 2013, hàng loạt quy định, Thông tư được đưa ra đã vấp phải sự phản ứng dữ dội từ dư luận. Nhiều quy định đã “phá sản” khi thực thi hoặc thiếu khả thi khi đưa vào thực tế. Cách đây không lâu, dư luận được một phen xôn xao với Thông tư liên tịch số 06 giữa bộ KH&CN, Công Thương, Công an, GTVT, trong đó cho phép các lực lượng chức năng xử phạt người đội mũ bảo hiểm kém chất lượng khi tham gia giao thông. Tuy nhiên, sau khi có ý kiến nhiều chiều từ dư luận và các chuyên gia, bộ Tư pháp đã lên tiếng, Thông tư 06 phải tạm dừng. Một quy định khá kỳ quặc nữa trong Nghị định 105 về tổ chức lễ tang cán bộ, công chức, viên chức mà bộ VH-TT&DL chủ trì soạn thảo là cấm lắp ô cửa kính trên nắp quan tài với lập luận để tránh ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe người dự tang lễ. Song, ngay lập tức, quy định này đã bị dư luận phản đối và rốt cục, văn bản này cũng bị cơ quan chức năng kiến nghị hủy bỏ.
Trước thực trạng trên, ông Ngô Văn Minh- Ủy viên thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho rằng, văn bản phải ban hành theo đúng trình tự, thủ tục của luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó, quy định rõ phải lấy ý kiến của các bộ, ngành có liên quan và đặc biệt quan trọng là lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động, rồi được bộ Tư pháp thẩm định trước khi trình xem xét, ký ban hành. “Tôi cho rằng, những văn bản có vấn đề là những văn bản không tuân thủ quy trình như trên, hoặc là ban hành thiếu cân nhắc, thiếu thận trọng”, ông Minh nói.
Nhiều ý kiến cho rằng, các Bộ trưởng không nên vin vào lý do thời gian quá bận nên anh em viết như thế nào thì ký như thế để ban hành những văn bản thiếu thực tế, hoặc kéo dài thời gian “nợ” Thông tư, Nghị định.
Nguyên nhân của những văn bản bị dư luận phản ứng, thậm chí có văn bản chưa thực hiện đã phải sửa, theo ông Minh là do trình độ năng lực và sự quan liêu, kể cả người thẩm định các văn bản đó cũng quan liêu. Có không ít Bộ, ngành luôn khẳng định rằng khi ban hành văn bản này chúng tôi đã lấy ý kiến người dân, lấy ý kiến đối tượng có liên quan. Nhưng hỏi ra mới biết họ chỉ đăng dự thảo văn bản đó trên website của Bộ, ngành mình. “Theo tôi, cần phải thay đổi lại quy trình lấy ý kiến nhân dân, đối tượng chịu sự tác động trước khi ban hành văn bản. Việc lấy ý kiến phải tiến hành rộng rãi, có hiệu quả, đúng đối tượng và đặc biệt là người soạn thảo văn bản phải thực tâm tiếp thu, chứ không phải là làm cho đủ thủ tục”, ông Minh kiến nghị.
Trên thực tế, các văn bản pháp quy của Chính phủ trước khi ban hành phải có ý kiến thẩm định của bộ Tư pháp, nhưng Bộ trưởng bộ Tư pháp cho biết, có những kiến nghị của Bộ đã không được chấp nhận bởi Chính phủ quyết định theo đa số. Thế nhưng, theo một ĐBQH, cần phải đặt vấn đề ngược lại rằng những ý kiến thẩm định của bộ Tư pháp đã được chuẩn bị kỹ chưa, có được giải trình thuyết phục và bảo vệ quyết liệt trước các thành viên Chính phủ không? Nếu thấy quy trình hiện nay là bất hợp lý, Bộ trưởng bộ Tư pháp nên đề xuất một quy trình xây dựng văn bản pháp quy phù hợp hơn.
Ông Lê Văn Cuông - nguyên ĐBQH cho rằng, có tình trạng Thông tư của Bộ, ngành thường được soạn thảo theo hướng thuận lợi cho sự quản lý của mình, nên có những Thông tư “cài” vào đó cả bộ máy, cả biện pháp thực hiện. Theo ông Cuông, chỉ nên dừng lại ở hình thức Nghị định quy định chi tiết điều khoản của luật, không nên để Bộ, ngành “ra” Thông tư nữa. Thậm chí, có nhiều luật phải cụ thể hóa luôn chứ không cần ban hành Nghị định nữa, trừ những luật có phạm vi điều chỉnh rộng, phức tạp. Nghị định chỉ được quy định chi tiết từng điều luật Quốc hội ủy quyền, chứ không thể quy định thêm nội dung và cũng không được giải thích luật. “Theo tôi, để bảo đảm khách quan và nâng cao chất lượng của văn bản thì cơ quan thẩm định, thẩm tra phải độc lập, đứng ngoài sự chi phối, ảnh hưởng của cơ quan soạn thảo”, ông Cuông kiến nghị.
3. Báo Điện tử Một thế giới có bài Bộ Xây dựng ra văn bản sai khiến chủ đầu tư trục lợi. Bài báo phản ánh: Cục Kiểm tra Văn bản Quy phạm Pháp luật (Bộ Tư pháp) vừa có văn bản đề nghị Bộ Xây dựng kiểm tra và xử lý văn bản quy định về cách tính diện tích căn hộ chung cư. Trong thời gian qua, quy định đã gây ra tranh chấp giữa người mua nhà và chủ đầu tư trong rất nhiều dự án
Hai văn bản bị “thổi còi” là Thông tư 16/2010 của Bộ Xây dựng Quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 71/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (Thông tư 16) và Công văn 124/QLN ngày 21.12.2010 của Cục quản lý nhà và thị trường bất động sản về việc hướng dẫn cách tính diện tích căn hộ nhà chung cư (Công văn số 124).
Theo Tiến sĩ Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục kiểm tra Văn bản Quy phạm Pháp luật, 2 văn bản trên của Bộ Xây dựng đưa ra chưa phù hợp với điều 70 Luật Nhà ở và điều 49 Nghị định số 71 của Chính phủ, không phù hợp với quy định của pháp luật Nhà ở.
Theo quy định của Luật Nhà ở (điều 70) và Nghị định số 71 (điều 49), những phần tường bao ngôi nhà, tường phân chia các căn hộ thuộc phần sở hữu chung và theo quy định tại điều 225 Bộ Luật dân sự thì phần diện tích, trang thiết bị dùng chung trong nhà chung cư thuộc sở hữu chung của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không thể phân chia.
Tuy nhiên, theo quy định và hướng dẫn về cách tính diện tích sàn căn hộ mua bán theo tim tường tại Thông tư 16 và Công văn 124 thì phần sở hữu chung (tường bao ngôi nhà, tường phân chia các căn hộ) đã bị đem chia cho chủ sở hữu các căn hộ, vì thế nó được tính vào diện tích sàn căn hộ mua bán và được ghi trong hợp đồng mua bán căn hộ.
Theo quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại Thông tư 17/2009 (Bộ Tài nguyên và Môi trường): “Đối với căn hộ chung cư thì ghi diện tích sàn căn hộ theo hợp đồng mua bán căn hộ” (điểm c khoản 2 điều 6).
Như vậy, với quy định về cách tính diện tích căn hộ theo tim tường tại Thông tư 16 và Công văn số 124, phần sở hữu chung không thể phân chia đã được đem chia và được công nhận trở thành sở hữu riêng. Điều này cũng không phù hợp với quy định của Bộ Luật dân sự.
Cạnh đó, quy định về cách tính diện tích sàn căn hộ mua bán theo nguyên tắc tim tường tại Thông tư số 16, những căn hộ có cột, hộp kỹ thuật thì cột, hộp này cũng được tính trong tổng diện tích của căn hộ. Người mua nhà phải trả tiền cho diện tích của cột, hộp này nhưng lại không được sử dụng và diện tích sử dụng thực tế nhỏ hơn căn hộ không có cột, hộp kỹ thuật, như vậy đã tạo ra bất bình đẳng giữa các chủ sở hữu căn hộ chung cư.
Hơn nữa, kèm theo một hệ lụy khác, đó là việc phải trả các khoản thuế, phí, hàng tháng, hàng năm tính theo diện tích căn hộ cho các dịch vụ có liên quan trong suốt quá trình sử dụng căn hộ đó.
Cũng từ quy định về cách tính diện tích sàn căn hộ mua bán tại Thông tư 16 dẫn đến việc xác định diện tích sở hữu, sử dụng của chủ đầu tư và chủ sở hữu căn hộ cũng như của cộng đồng dân cư tại chung cư hiện nay không rõ ràng. Cụ thể, phần cột, hộp kỹ thuật, tường bao, tường ngăn chia căn hộ ... tính vào sở hữu riêng nhưng có thể phần diện tích này đã được phân bổ vào giá bán chung cho toàn bộ ngôi nhà; hay phần sở hữu chung là hành lang, sảnh thì bị chủ đầu tư biến thành văn phòng cho thuê ...
Theo ông Sơn, đây chính là vấn đề mà dư luận báo chí đang băn khoăn và có tranh chấp giữa các chủ sở hữu các căn hộ với chủ đầu tư tại một số khu chung cư hiện nay.
Để đảm bảo tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật, Cục Kiểm tra văn bản Quy phạm Pháp luật đã thông báo và đề nghị Bộ tổ chức tự kiểm tra, xử lý nội dung chưa phù hợp với pháp luật của các văn bản nêu trên và thông báo kết quả xử lý cho Cục theo quy định của Chính phủ (30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo này).
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Nghị quyết 01/NQ-CP: Những giải pháp chủ yếu phát triển KT-XH năm 2014. Bài báo phản ánh: Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014.
Nghị quyết nêu rõ: Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 đã được Quốc hội thông qua là: Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải thiện môi trường kinh doanh. Bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2014 như phấn đấu đạt tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 5,8%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu khoảng 6% kim ngạch xuất khẩu; tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 7%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP; tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước 5,3% GDP. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,7%-2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động;...
2. Tạp chí Đầu tư bất động sản có bài Lãi suất cho vay gói 30 nghìn tỷ còn 5%. Bài báo phản ánh: Ngày 02/01/2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có Quyết định số 21 về mức lãi suất của các ngân hàng thương mại áp dụng trong năm 2014 đối với dư nợ của các khoản cho vay hỗ trợ nhà ở theo quy định tại Thông tư số 11.
Theo đó, mức lãi suất của các ngân hàng thương mại áp dụng trong năm 2014 đối với dư nợ của các khoản cho vay hỗ trợ nhà ở theo quy định tại Thông tư số 11/2013/TT-NHNN ngày 15/5/2013 là 5%/năm. Như vậy, lãi suất cho vay hỗ trợ nhà ở hiện nay đã thấp hơn 1%/năm so với mức lãi suất cho vay trong năm 2013 là 6%/năm.
Tính đến ngày 30/11/2013 các các ngân hàng đã cam kết cho vay đối với 1.256 khách hàng với tổng số tiền 1.562,1 tỷ đồng từ gói 30 nghìn tỷ. Trong đó đã giải ngân cho 1.236 khách hàng với tổng dư nợ 470,8 tỷ đồng (tương đương khoảng 1,6% của gói 30 nghìn tỷ).