I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nguy cơ thất thoát 12 tỷ đồng của nhà nước sau vụ án TAMEXCO?. Bài báo phản ánh: Vụ án TAMEXCO kết thúc năm 1997 với 4 án tử hình, là một trong những vụ án tham nhũng được dư luận cả nước quan tâm. Trong 4 bị án tử hình, có một người sau đó được Chủ tịch nước tha tội chết, được giảm án và đặc xá năm 2005. Đó là Lê Minh Hải - Giám đốc Cty TNHH Dolphin Vũng Tàu (Cty Dolphin). Tuy nhiên, đang có nguy cơ một khoản tiền lớn của Nhà nước bị thất thoát trong vụ việc này.
Năm 1994, ông Hải bán cho Cty TAMEXCO một diện tích đất lớn tạo điều kiện cho Phạm Huy Phước khai khống giá trị, vay hàng trăm tỷ đồng tại nhiều ngân hàng và sau đó không trả được. Theo kết luận đã có hiệu lực pháp luật, toàn bộ hợp đồng mua bán đất giữa Cty Dolphin và Cty TAMEXCO bị vô hiệu và ông Hải phải trả ngân sách nhà nước trên 64 tỷ đồng.
Để đảm bảo thi hành án, cơ quan thi hành án TP HCM đã thu giữ nhiều tài sản của Cty Dolphin rồi phát mại để thi hành án; trong đó có diện tích đất 14,3 ha tại TP.Vũng Tàu, được phát mại với giá trên 12 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước để thi hành án.
Tháng 10/1995, ngay sau khi vụ án TAMEXCO bị khởi tố, ông Hải bị cơ quan điều tra bắt giữ. Để tạo điều kiện cho những người còn lại giải quyết những việc dang dở, ông Hải có ký khống một số chữ ký trên giấy trắng và hóa đơn tài chính để hai ông Nguyễn Phước Lợi và Nguyễn Thế Quyết - lúc đó là Phó Giám đốc Cty Dolphin - sử dụng lúc cần thiết.
Khi nghe ông Hải bị tuyên án tử hình, hai ông này có dấu hiệu dùng những giấy tờ có chữ ký khống này để chiếm đoạt tài sản Cty Dolphin, trong đó có hợp đồng mua bán đất ngày 18/8/1995 giữa Cty Dolphin và ông Quyết với nội dung Cty Dolphin đã bán cho ông Quyết 7,4ha đất trong số 14,3ha mà cơ quan thi hành án đã phát mại.
Ông Quyết đã mang hợp đồng này khởi kiện tại TAND TP Vũng Tàu đòi cơ quan Thi hành án trả 12 tỷ cho ông Quyết. Ngày 24/10/2013, TAND TP Vũng Tàu đưa vụ án ra xét xử, yêu cầu Cơ quan thi hành án phải trả trên 12 tỷ đồng.
Theo hồ sơ vụ án TAMEXCO và những tài liệu hiện có, toàn bộ diện tích đất trên đã được Cty TNHH Dolphin bán cho Cty TAMEXCO theo Hợp đồng kinh tế số 07/HĐKT/CN ngày 1/10/1994 và đã làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất, công chứng tại Phòng Công chứng Nhà nước số 1 tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ngày 1/10/1994.
Các thửa đất giao dịch trong Hợp đòng kinh tế số 07/HĐKT/CN có số ô thửa, tờ bản đồ trùng với các thửa đất mà ông Nguyễn Thế Quyết ghi trong Hợp đồng mua bán đất giả (mãi đến ngày 31/3/1997, TANDTC mới tuyên bố vô hiệu các hợp đồng mua bán đất giữa Dolphin với TAMEXCO).
Tại thời điểm có hợp đồng mua bán đất với ông Quyết mà ông Quyết trình trước Tòa, chủ sở hữu diện tích đất nói trên là TAMEXCO, không phải là Dolphin Vũng Tàu. Dolphin Vũng Tàu không có quyền định đoạt diện tích này.
Như vậy, theo đúng các quy định pháp luật, hợp đồng mua bán đất của Dolphin Vũng Tàu với ông Quyết (nếu có) là vi phạm và không được pháp luật thừa nhận. Mặt khác, toàn bộ các thủ tục mua bán được ông Quyết và những người liên quan tạo dựng bằng các tài liệu giả sau khi ông Hải bị bắt giữ.
Thế nên, ông Hải đã kháng án: “Sau khi tôi bị bắt, ông Nguyễn Phước Lợi và ông Quyết quản lý và điều hành Cty Dolphin. Để thanh lý những công việc còn tồn tại, tôi có để lại một số giấy trắng, hóa đơn tài chính có chữ ký của tôi để hai anh tiện sử dụng để thanh lý hợp đồng. Các anh ấy đã sử dụng những giấy tờ trên để tạo dựng hợp đồng này và một số hợp đồng khác.
Về việc này, tôi đã tố cáo với cơ quan điều tra ngay khi ra tù. Chứng cứ giả mạo sẽ được làm rõ nếu HĐXX cho kiểm tra toàn bộ hồ sơ tài chính của Cty Dolphin được cơ quan điều tra thu và hiện vẫn giữ ngay sau khi tôi bị bắt (13/10/1995), sau ngày anh Quyết khai mua đất của Cty Dolphin. Trong hồ sơ thu giữ của cơ quan điều tra không có hợp đồng mua bán đất với anh Quyết. Hồ sơ tài chính không thể hiện khoản thu 1.550.000.000 đồng của anh Quyết do bán đất. Hóa đơn tài chính số CA94N No17540 ngày 18/8/1995 có chữ ký của tôi vì lý do tôi nói ở trên, nhưng chữ ký của kế toán là chữ ký giả và chắc chắn hóa đơn này không được quyết toán thuế khi tôi chưa bị bắt”.
Dù là vậy, HĐXX của TAND TP.Vũng Tàu vẫn công nhận hợp đồng giả, yêu cầu cơ quan thi hành án trả cho ông Quyết 12 tỷ đồng, khiến dư luận lo lắng một khoản tiền lớn của Nhà nước sẽ bị thất thoát.
Về vụ việc này, trong đơn kháng án ông Lê Minh Hải cũng nêu rõ: “Chúng tôi đã tố cáo lên cơ quan điều tra và các cơ quan chức năng. Ngay trong vụ việc này, bằng Hợp đồng mua bán đất giả, ông Nguyễn Thế Quyết đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tôi đề nghị chuyển vụ việc này cho cơ quan điều tra để xử lý hình sự.
Tiền bán mảnh đất này đang được lưu giữ tại cơ quan thi hành án chờ nộp ngân sách nhà nước. Hy vọng các cơ quan bảo vệ pháp luật sớm "vào cuộc" để tài sản nhà nước không bị thất thoát một cách vô lý".
2. Báo Đại đoàn kết có bài Bỏ án tử hình với tội hiếp dâm trẻ em: Nhiều tranh cãi. Bài báo phản ánh: Tước bỏ quyền sống (tử hình) là hình phạt nghiêm khắc mang tính trừng trị đối với những tội phạm nghiêm trọng. Tuy nhiên, hiện trên 8% các điều luật của BLHS có quy định hình phạt tử hình là khá cao. Xuất phát từ lý do này, mới đây một nhóm chuyên gia trong nước kiến nghị nên hạn chế bớt tử hình đối với 9 tội danh trong đó có tội hiếp dâm trẻ em. Ngay lập tức ý kiến này vấp phải sự phản đối quyết liệt.
BLHS 2009 hiện hành có 22 điều luật thuộc 8 chương quy định về các nhóm tội phạm cụ thể có quy định khung hình phạt cao nhất là tử hình.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chế tài hình sự hiện hành của nhóm chuyên gia trong nước thực hiện cho rằng, việc thực thi án tử hình nhiều tội danh là quá nặng. Vì vậy, cần từng bước giảm dần, hạn chế thấp nhất áp dụng hình phạt tử hình trong BLHS, nhân đạo hóa các biện pháp chế tài phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và đạo lý dân tộc. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã đề xuất xem xét hướng loại bỏ hình phạt tử hình đối với 9 tội danh: Hiếp dâm trẻ em; Cướp tài sản; Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy; Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Tham ô tài sản và Nhận hối lộ; Chống mệnh lệnh và Đầu hàng địch.
Lý giải về đề xuất bỏ án tử đối với tội danh hiếp dâm trẻ em, đại diện nhóm chuyên gia trong nước, ông Hoàng Anh Tuyên (VKSNDTC) nói, mục đích chính của kẻ phạm tội là thực hiện hành vi giao cấu, xâm hại tình dục trẻ em chứ không mong muốn làm nạn nhân chết. Việc nạn nhân chết nằm ngoài ý định của kẻ phạm tội. Trong khi đó, chính sách xử lý hình sự với những tội xâm phạm sức khỏe nghiêm trọng nhất cũng chỉ quy định khung hình phạt cao nhất là tù chung thân, thậm chí trong cả trường hợp dẫn đến chết nhiều người, trẻ em. Vì vậy, bỏ hình phạt tử hình với tội hiếp dâm trẻ em thể hiện sự nhất quán trong chính sách xử lý đối với các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Còn trong trường hợp hiếp dâm trẻ em mà cố ý làm nạn nhân chết hoặc vừa có hành vi hiếp dâm vừa có hành vi giết người thì kẻ phạm tội sẽ bị truy cứu hình sự về hai tội giết người, hiếp dâm trẻ em. Khi đó vẫn có thể áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình (ở tội giết người).
Trước đề xuất của nhóm chuyên gia, ông Lê Xuân Sơn (TAND Lạng Sơn) thẳng thắn cho rằng: lý do mà báo cáo nhóm chuyên gia đưa ra không thích hợp và không thể bỏ án tử hình đối với tội danh này. Lý do ông Sơn cho rằng, hiếp dâm trẻ em không chỉ thể hiện thú tính bản năng mà còn là sự suy đồi đạo đức trầm trọng gây bức xúc dư luận, với những trường hợp này cần phải loại khỏi cuộc sống vĩnh viễn.
"Trẻ bị xâm hại tình dục không chỉ gây thương tật về thể xác mà còn gây sang chấn rất nặng nề về tâm hồn. Tuy không nhìn thấy song nó có thể làm tổn thưởng cả một số phận con người do đó, không thể nhìn nhận tội hiếp dâm đơn thuần là tội danh xâm phạm sức khỏe. Điều này đi ngược với Công ước về quyền bảo vệ trẻ em” – Luật gia Nguyễn Thị Thu Hà phản bác lại đề xuất của nhóm chuyên gia.
Đáng lo ngại, theo Phó cục trưởng Cục Chăm sóc và bảo vệ trẻ em (Bộ LĐTB&XH) Nguyễn Trọng An, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm, toàn quốc phát hiện 846 vụ/983 đối tượng xâm hại 881 em, trong đó có 611 vụ là xâm hại tình dục. Tính ra, mỗi ngày có khoảng ba trẻ em bị xâm hại tình dục. Tính chất các vụ xâm hại đang rất đáng báo động, thể hiện sự suy đồi đạo đức. Hiện mức phạt cao nhất đang áp dụng là tử hình mà tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp, nên nếu giảm mức án cao nhất sẽ đẩy trẻ em trước nguy cơ bị xâm hại tăng hơn.
3. Báo VTC Online có bài Vi phạm giao thông, 'bêu danh' lên báo đài: Có sợ không?. Bài báo phản ánh: Lãnh đảo Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia khẳng định việc nêu tên người vi phạm giao thông lên báo, đài chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả.
Vừa qua, Tổng cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội (Tổng cục VII) - Bộ Công an (chủ trì soạn thảo) đã đưa dự thảo lần 4 Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 38/2010/BCA Quy định việc thông báo người có hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông ra lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của người dân và các bộ ngành liên quan.
Trong đó, điểm sửa đổi nổi bật là sau khi xử phạt, hàng tuần cơ quan chức năng sẽ thông báo tên người vi phạm giao thông đến địa phương, cơ quan quản lý và trên phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài truyền thanh địa phương).
Tuy nhiên, việc này chỉ áp dụng với các trường hợp bị tước giấy phép lái xe (các lỗi gây tai nạn do dừng xe không đúng nơi quy định, mở cửa gây tai nạn, không nhường đường hoặc cản trở xe ưu tiên, chạy quá tốc độ trên 35km/h...); trốn tránh nghĩa vụ cứu nạn khi có điều kiện; không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ tài liệu, vật chứng có liên quan đến vụ tai nạn giao thông; lợi dụng tai nạn giao thông để xâm phạm sức khỏe, tài sản của người bị nạn; chống đối, cản trở việc kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ...
Đặc biệt danh sách các trường hợp gây tai nạn nghiêm trọng do sử dụng rượu, bia, ma tuý hay chống người thi hành công vụ... sẽ được gửi về Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia (UBATGTQG) để phối hợp với cơ quan thông tin truyền thông trung ương đăng tải và gửi Bộ Công an để theo dõi.
Nếu người vi phạm là đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức thì các cơ quan, tổ chức, đoàn thể lấy đây làm cơ sở bình xét thi đua. Đối với học sinh, sinh viên thì xem đây là tiêu chuẩn đánh giá đạo đức, hạnh kiểm.
Trao đổi với báo chí về nội dung này, ông Nguyễn Hoàng Hiệp, Phó Chủ tịch chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia cho biết, ông ủng hộ quan điểm của Tổng cục VII nêu ra trong dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư 38/2010.
“Những vi phạm nặng thuộc về lỗi cố ý hoặc thể hiện ý thức tham gia giao thông kém thì chỉ phạt bằng tiền thôi không sức răn đe. Gửi thông báo vi phạm về nơi cư trú, cơ quan công tác, đăng tải trên báo đài chắc chắn sẽ đạt hiệu quả tốt hơn”- ông Hiệp nói.
Theo ông Hiệp, việc thông báo danh tính người vi phạm giao thông lên các phương tiện thông tin đại chúng mới được thực hiện chưa lâu nhưng đã phát huy hiệu quả.
Phía UBATGTQG cũng đã đề nghị Ban An toàn giao thông địa phương thường xuyên công khai danh tính người cố tình vi phạm giao thông lên phương tiện truyền thông.
Tuy nhiên, ông Hiệp nói không phải trường hợp nào cũng bêu tên trên phương tiện truyền thông đại chúng mà phải cân nhắc đưa vào những lỗi nào thì thông báo về địa phương, lỗi nào thì công bố lên phương tiện thông tin đại chúng, nhưng theo hướng các trường hợp bêu tên là cố tình vi phạm gây ra tai nạn nghiêm trọng.
Quy định này trước hết nên thực hiện đối với cán bộ, công chức và sẽ không vi phạm với các quy định khác vì đã có luật Cán bộ công chức.
“Hiện chúng tôi đang phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ, trong đó có việc chấp hành ATGT” – ông Hiệp cho hay.
Phó Chủ tịch UBATGTQG cũng cho rằng, việc xử phạt người vi phạm nếu nặng quá thì gây phản ứng, thấp quá thì không đủ sức răn đe, hơn nữa một số người vi phạm có thái độ nghênh ngang, nếu chỉ buộc họ nộp phạt 1 triệu hay 5 triệu thì không đảm bảo được yêu cầu quản lý, giáo dục, răn đe.
Cũng theo Phó Chủ tịch UBATGTQG, trong việc này, báo chí phải có trách nhiệm đăng các thông tin đăng tên người vi phạm.
Theo đó, ở trung ương, các cơ quan báo chí là thành viên của UBATGTQG, như Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam. Ở địa phương là đài truyền hình, báo của tỉnh... sẽ đăng thông tin người vi phạm.
4. Báo Công an nhân dân có bài Về thông tư 77 công việc không được sử dụng lao động nữ Không làm thì lấy gì mà sống?. Bài báo phản ánh: Thông tư 26/2013 của Bộ LĐ-TB&XH có hiệu lực từ ngày 15/12, quy định 77 công việc phụ nữ không được làm. Theo Bộ LĐ-TB&XH đây là những quy định thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đối với phụ nữ nhằm đảm bảo sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản của chị em. Nhưng những quy định đó không phù hợp với thực tế, khi phần lớn những người phụ nữ lao động phổ thông đều không có quyền lựa chọn công việc. Họ đang làm bất cứ việc gì, kể cả nặng nhọc, vất vả, thậm chí đánh cược cả tính mạng mình để mưu sinh.
Với hầu hết phụ nữ lao động nông thôn, kiếm được một công việc làm, để duy trì sống qua ngày đã là một may mắn. Thế nên, lựa chọn công việc đối với họ còn là một việc quá xa xỉ. Hiện nay, tỷ lệ lao động nữ nông thôn chiếm 50% trong số 70% lao động nông nghiệp ở nước ta. Những người phụ nữ mà chúng tôi gặp, đều nai lưng, kiếm sống vì gia đình, nuôi con ăn học, thậm chí chỉ để qua ngày đoạn tháng. Họ trình độ thấp, không được học hành, không có nghề nghiệp. Không lao động, dù là lao động nhọc nhằn, đối với họ, đồng nghĩa với đói khổ. Những người lao động mà chúng tôi gặp, họ đều không biết gì đến thông tư quy định 77 việc phụ nữ không được làm. Hỏi ai cũng ngơ ngác, không quan tâm hoặc ngạc nhiên, không làm thì lấy gì mà sống. Với họ, công việc không có nhiều sự lựa chọn.
"Về quy định 77 công việc không được sử dụng lao động nữ mà Bộ LĐ-TBXH mới đưa ra, có nội dung cấm các việc phải mang vác nặng trên 50kg (phụ nữ bình thường) và trên 20kg (phụ nữ mang thai), và phải bò, cúi, khom người, tôi chưa hề nghe nói. Mà cho dù có nghe nói, tôi cũng không quan tâm vì với những người lao động tự do không có trình độ như chúng tôi thì không có quyền lựa chọn công việc, nói gì mình không được làm cái này cái kia. Dù nặng nhọc tới mấy, 50kg chứ 100kg, tôi cũng làm, miễn là có tiền. Có khi, người ta thuê mình vác các bao tải quần áo hàng tạ. Lắm lúc cũng mệt lắm nhưng xoay xở một lúc rồi cũng xong. Tôi làm ở đây lâu lắm rồi, có vấn đề gì đâu. Cứ đưa ra quy định này nọ, làm khổ dân nghèo".
Nhiều người hoang mang, lo lắng khi chúng tôi đề cập đến những nghề mà phụ nữ không được làm. Họ lo lắng, như một phần cơm áo hằng ngày sẽ bị tước mất. Nếu luật ban hành, nghĩa là họ sẽ không có cơ hội làm những công việc nặng nhọc mà họ vẫn làm, nhưng là cần câu cơm hằng ngày.
Nhiều chuyên gia cho rằng, thông tư này của Bộ LĐ-TB&XH không phù hợp với thực tế ở nước ta. Đành rằng, bảo vệ quyền và sức khỏe sinh sản của phụ nữ là điều cần thiết. Nhưng nhà nước chưa tạo được công ăn việc làm ổn định cho họ, thì làm sao lại nói đến chuyện cấm họ làm việc. Hầu hết những người phụ nữ này đều là lao động chính của gia đình. Họ không có lựa chọn về công việc. Thậm chí, họ phải đánh cược cả mạng sống để mưu sinh, kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con.
Có một câu hỏi đặt ra là: "Nhà nước có tạo ra công việc đầy đủ cho phụ nữ không mà quy định cấm, nếu trong số những công việc cấm này mà nhiều phụ nữ phải mất nguồn thu nhập chính thì phải làm sao đây? Liệu những người này nhà nước có cho họ việc làm để họ nuôi sống bản thân và gia đình không? Một văn bản thiếu tính khả thi. Tại sao lại ban hành? Tôi không hiểu mục đích của việc đưa ra 77 công việc phụ nữ không được làm là gì? Có phải muốn bảo vệ sức khỏe và tránh nguy hiểm cho chị em không? Muốn bảo vệ sức khỏe và an toàn cho chị em thì trước hết phải giúp lo cuộc sống của họ và gia đình họ, nếu nhà nước có đủ khả năng giúp việc đó thì mới được ra lệnh cấm, còn không giúp đươc mà cứ cấm thì chỉ đẩy nhiều chị em và gia đình họ đến chỗ khốn khổ mà thôi", ông Trịnh Hòa Bình nói.
Văn bản thì cứ ban hành. Và ngoài thị trường lao động tự do, những người phụ nữ vẫn phải gồng mình lên, làm bất cứ việc gì để kiếm sống hằng ngày.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Đánh giá kết quả kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa XIII. Bài báo phản ánh: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khoá XIII, đã thu được kết quả tốt, có ý nghĩa lịch sử bằng việc thông qua Hiến pháp tạo ra bước phát triển mới cho đất nước. Thu hút được sự quan tâm cử tri cả nước, tăng thêm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) và 7 dự án luật; cho ý kiến về 10 dự án luật khác. Các dự án luật trình Quốc hội được chuẩn bị tốt, đầy đủ hồ sơ, thủ tục theo quy định. Việc ban hành các đạo luật có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, giải quyết các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn cuộc sống, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.
Báo cáo tại phiên họp thứ 23 của UBTVQH, khai mạc sáng 23/12, thẳng thắn chỉ ra những hạn chế cần tiếp tục được rút kinh nghiệm. Đó là, một số dự án luật trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu chưa được chuẩn bị kỹ, còn thiếu dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành kèm theo. Một số dự án luật quan trọng, còn ý kiến khác nhau chưa bố trí thời gian thỏa đáng để Quốc hội thảo luận...
Việc chuẩn bị, gửi tài liệu của một số nội dung chưa đảm bảo tiến độ, ảnh hưởng đến việc nghiên cứu, tham gia ý kiến của đại biểu Quốc hội và thời gian, chất lượng kỳ họp. Một số báo cáo thẩm tra còn dài, tính phản biện chưa cao.
Việc chuẩn bị báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về các dự án luật chưa đầy đủ.
Trên cơ sở đó, UBTVQH cho biết, sẽ tổ chức Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách, Hội nghị trực tuyến để cho ý kiến về một số dự án luật và các nội dung quan trọng trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7. Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cách thức làm việc để nâng cao chất lượng, hiệu quả các nội dung được Quốc hội xem xét, quyết định. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Quốc hội.
2. Báo Nhân dân điện tử có bài CPI bình quân năm 2013 tăng thấp nhất trong 10 năm. Bài báo đưa tin: Ngày 23-12, Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá tiêu dùng cả nước (CPI) tháng 12-2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với tháng 12-2012. CPI bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012. Đây là năm có chỉ số CPI tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.
Tổng cục Thống kê cũng công bố một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2013 so với năm 2012. Cụ thể, tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước tăng 5,42 %, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,6%, tổng kim ngạch xuất khẩu, tổng kim ngạch nhập khẩu cùng tăng ở mức 15,4%, vốn đầu tư ngân sách nhà nước thực hiện so với kế hoạch năm là 101,5%.
3. Báo Nhân dân điện tử có bài Năm 2013, GDP của cả nước tăng 5,42%. Bài báo phản ánh: Tại cuộc họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế-xã hội năm 2013 diễn ra sáng 23-12 tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê đã chính thức công bố tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012, trong đó, quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5%; quý III tăng 5,54%; quý IV tăng 6,04%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và có tín hiệu phục hồi; kim ngạch xuất khẩu năm 2013 của cả nước ước tính đạt hơn 132 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012; xuất siêu 863 triệu USD, bằng 0,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Mặc dù số lượng DN giải thể, phá sản, ngừng hoạt động lên tới gần 61 nghìn DN, tăng 11,9% so năm trước nhưng số lượng DN thành lập mới vẫn nhiều hơn với gần 77 nghìn DN, tăng 10,1%.
Theo Tổng cục Thống kê, điểm sáng của bức tranh kinh tế - xã hội nước ta năm 2013 là kinh tế vĩ mô cơ bản giữ ổn định. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước tháng 12-2013 chỉ tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với tháng 12-2012. Ðây là năm có CPI tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Ngoài ra các cân đối lớn vẫn được bảo đảm, tỷ giá ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối tăng cao. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2013 bằng 30,4% GDP, thu hút FDI từ đầu năm đến ngày 15-12-2013 ước tính đạt 21,6 tỷ USD, tăng 54,5% so cùng kỳ năm trước...