I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chậm thi hành án gây thiệt hại cho dân. Bài báo phản ánh: Bà Huỳnh Thị Tặng (ấp Vĩnh Phụng, xã Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ) phản ánh ngày 18-11-2009, TAND TP Cần Thơ xét xử phúc thẩm, tuyên buộc bà B. cùng những người trong hộ phải di dời cây lâu năm và tài sản khác để trả lại đất cho bà. Một tháng sau, gia đình gửi đơn yêu cầu thi hành án (THA). Tuy nhiên, suốt hai năm sau, gia đình bà nhiều lần liên hệ Chi cục THA huyện Vĩnh Thạnh hỏi tình hình thì chấp hành viên đều trả lời “về chờ đợi, sẽ giải quyết”.
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Nguyễn Công Lý (Chi cục trưởng Chi cục THA huyện Vĩnh Thạnh) cho biết: Đúng là vụ việc của hộ bà Tặng kéo dài nhiều năm và đã gây bức xúc cho gia đình. Tuy nhiên, đến nay chúng tôi đã có hướng giải quyết. Về mốc ranh đất bị mất chúng tôi thống nhất khi cưỡng chế thì Phòng TN&MT sẽ đo rồi giao đất luôn. Còn ý kiến chỉ đạo tạm ngưng cưỡng chế THA là do hộ bà B. có đơn khiếu nại cho rằng đất của bà khi cấp giấy đỏ đo bị thiếu. Thế nhưng sau đó, Ban Chỉ đạo THA huyện đã họp, Phòng TN&MT đã báo cáo trường hợp khiếu nại của bà B. rằng diện tích đất hai hộ bà B. và bà Tặng cùng có biến động chứ không riêng hộ bà B. Ngày 22-10, lãnh đạo huyện cũng là thống nhất cưỡng chế THA theo đề xuất của cơ quan THA. Do đó, cơ quan THA sẽ tiến hành cưỡng chế để giao đất cho hộ bà Tặng trong thời gian sớm nhất.
2. Báo An ninh Thủ đô có bài Quy định chưa rõ, làm khó người trong cuộc. Bài báo phản ánh: Cho trẻ em làm con nuôi được xem là một giải pháp bảo vệ trẻ em, đem lại cho trẻ bất hạnh một mái ấm gia đình. Thời gian qua, mặc dù Luật Nuôi con nuôi đã góp phần hoàn thiện các quy định bảo vệ quyền trẻ em, song những rắc rối liên quan đến vấn đề này cho thấy nhiều quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng…
Gọi điện đến Đường dây nóng Báo ANTĐ, ông Nguyễn Thành An, ở quận Hai Bà Trưng cho biết, năm 2010 ông đến UBND phường nơi mình cư trú đăng ký làm cha nuôi một cô bé 2 tuổi. Tại thời điểm đăng ký và xác lập quan hệ nuôi con nuôi, ông An đang ở trong tình trạng độc thân, do đó khi đăng ký khai sinh cho con nuôi, bản chính giấy khai sinh chỉ có tên cha, không ghi tên mẹ. Đến năm 2012, ông An kết hôn. Khi có giấy chứng nhận kết hôn, ông An đã đến UBND phường yêu cầu ghi tên người vợ mới cưới của mình vào giấy khai sinh của con nuôi để đứa trẻ có đầy đủ tên cha mẹ trong hồ sơ, giúp thuận lợi hơn trong cuộc sống sau này. Tuy nhiên, sau khi chính quyền địa phương tra cứu các quy định pháp luật, họ đã trả lời ông An là do pháp luật hiện hành không quy định về trường hợp này nên không rõ trường hợp của ông có được giải quyết hay không. Chính vì vậy, cho đến nay, mong muốn trên của ông An vẫn chưa được đáp ứng.
Theo luật sư Nguyễn Tiến Hoà- Đoàn Luật sư TP Hà Nội, rắc rối từ trường hợp trên cho thấy, hiện trong một số trường hợp cụ thể, pháp luật chưa quy định rõ, cụ thể, đối với người độc thân khi xác lập quan hệ con nuôi với một đứa trẻ thì việc bổ sung thông tin vào hồ sơ khai sinh cũng chưa được quy định rõ ràng, gây khó khăn nếu người nhận con nuôi có thay đổi về mặt pháp lý. Mặt khác, khi người cha hoặc mẹ nuôi này kết hôn, và người vợ hoặc chồng của họ muốn làm cha hoặc mẹ nuôi của đứa trẻ đó bằng cách bổ sung thông tin còn lại về cha hoặc mẹ nuôi của đứa trẻ trong khai sinh thì pháp luật cần có quy định về vấn đề này để đảm bảo cho cơ quan có thẩm quyền có thể giải quyết hợp pháp, đề cao tính nhân đạo cho mọi trẻ em quyền có cha mẹ.
Cũng theo luật sư Nguyễn Tiến Hoà, trong trường hợp cha hoặc mẹ nuôi hoặc cha và mẹ nuôi muốn thay đổi thông tin trong khai sinh về họ tên của đứa trẻ thì pháp luật cần quy định rõ là dựa trên sự đồng ý của đứa trẻ mới tiến hành thủ tục. Đối với người độc thân xác lập quan hệ con nuôi với trẻ em bị bỏ rơi thì quan hệ này cũng được xác lập tương tự như vấn đề nhận con nuôi đối với trẻ em mồ côi của người độc thân, cũng thực hiện trên cơ sở tôn trọng ý kiến của người được nhận làm con nuôi.
Bên cạnh những thủ tục liên quan đến vấn đề nhận con nuôi, hiện một số quy định về điều kiện của người nhận nuôi con nuôi cũng được cho là chưa cụ thể. Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định người nhận nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Theo Tiến sỹ Lã Thị Bưởi, Trung tâm Đào tạo và phát triển cộng đồng thì quan hệ cha mẹ và con trong việc nuôi con nuôi không hẳn gắn với quy luật tự nhiên về mặt sinh học, mà nó được hình thành trên cơ sở ý chí, tình cảm của các bên. Người nhận nuôi phải đạt tới một độ tuổi tối thiểu nhất định thì mới có được kinh nghiệm, hiểu biết, điều kiện kinh tế phù hợp và quan trọng nhất là nhận thức rõ về nhu cầu nhận nuôi con nuôi của mình. Do đó, cần quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận con nuôi một cách rõ ràng, cụ thể hơn, và có thể quy định độ tuổi đó là từ 25 tuổi trở lên.
Hiện nước ta có khoảng 1,7 triệu trẻ em thuộc 11 nhóm có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó khoảng 1,5 triệu trẻ khuyết tật, trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi. Những năm qua hàng nghìn trẻ em được nhận làm con nuôi với hơn 30% trẻ em được nhận làm con nuôi ở nước ngoài. Từ lâu, trẻ em đã được coi là một nhóm xã hội non nớt, dễ bị tổn thương nhất và được toàn thể cộng đồng các quốc gia và quốc tế quan tâm và bảo vệ. Luật Nuôi con nuôi 2010 khẳng định việc cho làm con nuôi nước ngoài chỉ là giải pháp cuối cùng khi mà đứa trẻ không thể được chăm sóc ở chính quốc gia của mình. Mục đích của việc nuôi con nuôi nước ngoài là đem lại cho trẻ em bất hạnh một mái ấm gia đình thay thế. Tuy nhiên, những quy định về lợi ích và quyền của trẻ em khi được nhận làm con nuôi hiện nay dẫn đến hiện tượng trục lợi, cò mồi phát sinh cùng quá trình giải quyết cho trẻ làm con nuôi nước ngoài trong việc giới thiệu trẻ hay không minh bạch trong các khoản hỗ trợ nhân đạo, nhận nuôi con nuôi nhằm bóc lột sức lao động, có trường hợp lợi dụng để buôn bán trẻ em, xâm hại đến quyền và không bảo vệ được lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Theo quy định của pháp luật, người nước ngoài nhận nuôi con nuôi phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi và phải trả một khoản tiền để bù đắp một phần chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài, bao gồm chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ khi được giới thiệu làm con nuôi đến khi hoàn thành thủ tục giao nhận con nuôi, xác minh nguồn gốc của người được giới thiệu làm con nuôi, giao nhận con nuôi và thù lao hợp lý cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng.
Song theo Luật sư Nguyễn Tiến Hoà, mặc dù lệ phí đăng ký con nuôi là hợp lý, nhưng còn về chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài, bao gồm chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ khi được giới thiệu làm con nuôi đến khi hoàn thành thủ tục giao nhận con nuôi, xác minh nguồn gốc của người được giới thiệu làm con nuôi,… được cho là đi ngược lại yếu tố nhân đạo. Thời gian cấp giấy xác nhận người nhận con nuôi là từ 30-60 ngày, do đó, chi phí phát sinh trong khoảng thời gian trên đối với cơ sở nuôi dưỡng trẻ được nhận làm con nuôi tuy không lớn nhưng nếu người nhận nuôi trẻ phải đóng quá nhiều khoản phí sẽ gây ảnh hưởng đến tâm lý của họ, đồng thời có thể hạn chế cơ hội của các em để có cuộc sống gia đình trọn vẹn. Do vậy, việc hoàn chỉnh quy định về thủ tục, thẩm quyền và giải quyết các phát sinh xảy ra trong quá trình nuôi con nuôi cần được quy định cụ thể, tạo điều kiện cho trẻ đảm bảo có cuộc sống ổn định để phát triển toàn diện.
3. Báo Gia đình Việt Nam có bài Vỡ "mộng" lấy chồng ngoại. Bài báo phản ánh: Thời gian gần đây làn sóng ly hôn giữa các thiếu nữ miền Tây với chồng nước ngoài tăng chóng mặt, trong đó Hậu Giang là một trong những địa phương có tỷ lệ phụ nữ ly hôn cao nhất. ..
Tan vỡ giấc mơ lấy chồng ngoại, hàng loạt thiếu nữ miệt sông nước Hậu Giang ngậm ngùi ôm con thơ về xứ…Hậu quả của những cuộc hôn nhân “chớp nhoáng” giữa hai người không quen biết, không hiểu ngôn ngữ, tập quán, hoàn cảnh gia đình… đã kéo theo nhiều hệ lụy. Vấn đề cốt lõi là mục tiêu “đổi đời” ở xứ người không thành đã khiến nhiều chị em tìm đường tháo chạy.
Ông Phạm Văn Hải, Chủ tịch UBND xã Vị Thắng (Vị Thủy, Hậu Giang), một trong những xã có đông người lấy chồng ngoại, chua chát nói: “Nếu như mấy năm trước phong trào lấy chồng ngoại diễn biến khá mạnh thì nay ngược lại, những vụ ly hôn với chồng nước ngoài đang tăng chóng mặt. Đây là vấn đề mới phát sinh nên địa phương chưa có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu rõ nguyên nhân cũng như các biện pháp xử lý”.
Theo ông Phạm Văn Hải, Chủ tịch UBND xã Vị Thắng, thời gian qua toàn xã đã có 11 trường hợp phụ nữ lấy chồng nước ngoài ôm con thơ trở về quê sinh sống. Phần lớn là do mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, điều kiện kinh tế bên chồng khó khăn, mơ ước đổi đời không thành sự thật...
Có thể nói làn sóng ly hôn với chồng ngoại đang xảy ra phổ biến ở nhiều nơi. Tại Hậu Giang, theo thống kê mới nhất của tòa án nhân dân tỉnh này thì chỉ trong 3 năm gần đây đã giải quyết ly hôn cho khoảng 300 phụ nữ lấy chồng ngoại (chủ yếu là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ trên nhưng chủ yếu là nguyên nhân bất đồng về văn hóa, tập quán, đặc biệt là chuyện “tưởng giàu mà nghèo kiết xác”.
Theo một cán bộ của TAND tỉnh Hậu Giang thì con số 300 vụ ly hôn kia chỉ là bề nổi còn thực tế, chuyện “bỏ chồng ngoại” trở về “mái nhà xưa” còn lớn hơn rất nhiều. “Thực tế có rất nhiều trường hợp phụ nữ lấy chồng ngoại đã trốn về nước nhưng không làm thủ tục ly hôn do không đủ điều kiện về giấy tờ, pháp lý... hoặc chị em không cần làm thủ tục ly hôn vì quá thất vọng khi sa chân vào con đường lấy chồng ngoại”, cán bộ này cho biết.
Hàng loạt vụ ly hôn chồng ngoại đã kéo theo nhiều hệ lụy phát sinh, trong đó vấn đề đáng quan tâm nhất là nhiều đứa con lai theo mẹ về Việt Nam sinh sống nhưng còn mang quốc tịch nước ngoài nên gặp nhiều trở ngại trong học hành, hưởng các chính sách... Ông Trần Văn Quen, cán bộ Tư pháp xã Vị Thắng trăn trở: “Không riêng gì ở Vị Thắng mà nhiều nơi khác cũng rối bời chuyện trẻ con lai khi về quê không có hộ khẩu, không có giấy khai sinh do cha mẹ chưa giải quyết dứt điểm thủ tục ly hôn ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam. Từ đó chính quyền không thể làm khai sinh mới cho trẻ con lai được!”.
Chị N. T. X., ở ấp 6 chua chát: “Sau khi chia tay người chồng Hàn Quốc, tui vội về nước mà không làm thủ tục ly hôn. Thế nên giờ tui lấy chồng khác ở An Giang nhưng không đăng ký kết hôn mới được. Đứa con vừa sinh ra buộc phải lấy họ mẹ chứ không được mang họ cha, nghĩ mà cay đắng quá!”.
Ông Phạm Văn Hải, Chủ tịch UBND xã Vị Thắng thừa nhận, ngoài những rắc rối về thủ tục để giải quyết quyền lợi cho các trẻ con lai thì tương lai của các bé cũng đang là dấu hỏi đặt ra bởi nhiều trường hợp chị em khi ôm con thơ về nước và gửi cho ông bà ngoại nuôi thì lại lên TP. HCM, miền Đông... làm thuê kiếm sống, do ở quê không có việc làm.
4. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Nỗi đau từ nạn tảo hôn ở miền núi. Bài báo phản ánh: Ở các huyện miền núi xa xôi của tỉnh Nghệ An, vấn nạn tảo hôn đã và đang gây ra những hệ lụy, bi kịch cho người dân các dân tộc thiểu số. Tảo hôn không chỉ gia tăng đói nghèo, số vụ ly dị, giảm sút chất lượng giống nòi, sức khỏe sinh sản mà còn đẩy nhiều trường hợp đến cái chết thương tâm...
Phó chủ tịch xã Huồi Tụ - Dềnh Bá Lồng không giấu được nỗi niềm: “Đã vận động nhiều, tuyên truyền nhiều nhưng cũng chỉ được một phần nào đó thôi. Cái bụng họ không chịu hiểu thì nói thế nào đi nữa cũng vô ích. Nạn tảo hôn là một trong những vấn đề xã hội khiến cán bộ chúng tôi đau đầu, đang cố tìm cách thay đổi”.
Xã Huồi Tụ có 826 hộ dân với hơn 4.186 nhân khẩu, trong đó người Mông chiếm hơn 90% dân số. Đã từ lâu đời, người dân tộc Mông có tập tục bắt vợ. Đây là nét đẹp có từ xa xưa, khi đôi trai gái đồng ý lấy nhau thì nhà trai “giả vờ” qua nhà gái để bắt vợ về. Mặc dù nhà gái trong lòng đã chấp thuận nhưng “mặt ngoài còn e” nên vẫn nhùng nhằng chưa muốn về. Bắt vợ thể hiện cái danh giá, phẩm hạnh của người con gái, sự yêu quý, trân trọng của người con trai. Có thể nói đây là một tập tục đẹp đẽ trong cộng đồng người Mông cũng như một số dân tộc thiểu số khác ở miền Tây xứ Nghệ. Tuy nhiên trải qua thời gian, tập tục này không còn được vẹn nguyên bản chất như vốn có mà đã bị lai căng, thay đổi. Hờ Bá Đà - Phó bí thư Đoàn thanh niên xã Huồi Tụ - góp chuyện: “Nhiều thanh niên trong các thôn bản đã lợi dụng phong tục tốt đẹp này để “vô tư” bắt vợ, cưỡng ép những cô gái mà họ thích. Trong khi đó những người “bị bắt” thường không có tình yêu với kẻ “bắt cóc” mình nên xảy ra bi kịch, đặc biệt có người đã tìm đến cái chết để được giải thoát”.
Tảo hôn, cưỡng hôn không chỉ đẩy nhiều cô gái ở các vùng miền núi tìm đến cái chết mà còn gây ra đói nghèo, thất học, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sinh sản cũng như nhiều lệ lụy khác. Mặc dù không được chính quyền địa phương cho phép nhưng Và Nỏ Công và Xồng Y Bâu (ở bản Huồi Lê, xã Huồi Tụ) vẫn về ở với nhau như vợ chồng khi mới 15 - 16 tuổi. Bỏ học giữa chừng, vợ chồng mũi dãi chẳng biết làm gì để ăn, đành phải “cầu cứu” cha mẹ, anh em. Năm ngoái, nhờ ưu tiên của Nhà nước dành cho hộ nghèo nên “vợ chồng” mới có căn nhà để ở. Nhưng mãi đến giờ đã có hai mặt con, cả hai vẫn chưa đăng ký kết hôn, đồng nghĩa với việc con cái không có giấy khai sinh.
Tảo hôn không chỉ rơi vào những gia đình nghèo khó, trình độ thấp mà còn có hộ khá giả, làm cán bộ văn hóa. Hôm chúng tôi lên một xã sát biên giới, vẫn còn xôn xao chuyện cô bé Lỳ Y B. (13 tuổi, đang học lớp 8) con anh Lỳ Nỏ C., cán bộ văn hóa xã và vợ là bí thư chi bộ bản, “phải lòng” một chàng trai lớp trên. Mặc dù hai gia đình ngăn cản nhưng cô cậu đã “thề non hẹn biển” nên nhất quyết không chịu rời nhau. Tâm sự với chúng tôi, anh C. vò đầu, bứt tai: “Bố mẹ đã hết sức khuyên can, anh em dòng họ cũng thế nhưng vẫn không ăn thua. Mình nạt nộ, làm găng thì sợ chúng nó ăn lá ngón tự tử nên đành thôi. Làm văn hóa xã mà giờ chuyện tảo hôn lại xảy ra ở ngay gia đình mình nên cũng đau lòng lắm”.
Giữa những cánh rừng xa thẳm, núi non trùng điệp, nơi còn nhiều khó khăn, hạn chế về văn hóa, kinh tế vấn nạn tảo hôn đã và đang gây ra nhiều bi kịch, hệ lụy cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Sự chung tay, góp sức của các cấp ban ngành, cộng đồng xã hội là hết sức cần thiết nhằm từng bước xóa bỏ quan niệm lạc hậu, vấn nạn ăn sâu vào tiềm thức lâu đời của người dân miền núi.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin 2014, phấn đấu tăng GDP khoảng 5,8%. Bài báo đưa tin: Với đa số tán thành, sáng nay, 11-11, các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014. Theo đó, một trong 14 chỉ tiêu được Quốc hội thông qua là phấn đấu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 5,8%.
Mục tiêu tổng quát được Nghị quyết đưa ra là: Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh trạnh của nền kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải thiện môi trường kinh doanh. Bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
2. Báo Điện tử Kiến thức có bài Xử tử hình bằng tiêm thuốc và bắn súng: Lợi bất cập hại. Bài báo phản ánh: Việc áp dụng song song hai hình thức xử bắn và tiêm thuốc độc khiến nhiều người không đồng tình, cho thấy hậu quả của việc làm luật vội vàng và thiếu tầm nhìn.
Theo Luật sư Hoàng Văn Thạch, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, Văn phòng Luật sư Trí Minh, việc áp dụng song song hai hình thức này có một số thuận lợi nhất định.
Luật thi hành án tử hình có hiệu lực từ ngày 01/07/2011 và Nghị định 82/2011 hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ 01/11/2011 trong đó quy định về việc áp dụng hình thức tử hình bằng tiêm thuốc độc. Tuy nhiên do chưa đảm bảo điều kiện về thuốc và cơ sở vật chất nên chúng ta phải dừng việc thi hành án tử hình đối với tử tù từ 01/07/2011. Mãi đến gần đây mới có một số ít phạm nhân được tử hình bằng tiêm thuốc.Việc dừng một thời gian dài như vậy gây ra tình trạng tồn đọng tử tù rất nhiều. Do vậy việc áp dụng bổ sung thêm hình thức xử bắn sẽ giúp giảm áp lực cho cơ quan thi hành án và cũng giảm cả áp lực cho các tử tù vì phải sống trong thời gian chờ đợi cái chết quá dài với điều kiện khắc nghiệt khiến họ có những tổn thương về tâm lý.
“Tuy nhiên, theo tôi, việc áp dụng song song hai hình thức này là không nên. Nếu đã quay về việc áp dụng hình thức xử bắn thì tạm thời dừng hẳn việc tiêm thuốc lại, chờ đến khi đã có được loại thuốc đảm bảo yêu cầu thi hành án cũng như nguồn lực về cơ sở vật chất khác được đảm bảo thì mới áp dụng việc tiêm thuốc độc và bỏ xử bắn. Bởi hình thức tiêm thuốc được cho là mang tính nhân đạo hơn cho tử tù (ít gây đau đớn và giữ nguyên được thi thể của họ) so với hình thức xử bắn. Trong khi nguyên tắc của pháp luật nói chung luôn là bình đẳng, công bằng. Do vậy các tử tù khi chấp hành án tử hình thì đều phải được bình đẳng như nhau. Không nên để tình trạng người này được tiêm thuốc người kia phải xử bắn.
Bị cáo chỉ bị tuyên tử hình khi phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng và bị hội đồng xét xử đánh giá là không có khả năng cải tạo. Khi bị tuyên án tử hình và bản án có hiệu lực pháp luật thì họ trở thành những tử tù và đều bình đẳng, bất kể tội danh họ gây ra là gì. Do vậy không nên đặt ra vấn đề ai nên tiêm thuốc ai nên xử bắn.
Trước đây khi trình ra Quốc hội thông qua Luật thi hành án hình sự trong đó có quy định hình thức tử hình bằng tiêm thuốc độc, các cơ quan đảm bảo được điều kiện về cơ sở vật chất đầy đủ thì đã không gây ra tình trạng như hiện nay. Đây là hậu quả của việc làm luật vội vàng và thiếu tầm nhìn”, Luật sư Thạch nhận định.
Cũng đồng tình với việc không nên áp dụng song song hai hình thức tử hình là xử bắn và tiêm thuốc độc, một luật sư thuộc Đoàn Luật sư TP HCM cho rằng, có lẽ trên lý thuyết là áp dụng song song hai hình thức, nhưng thực tế có khi chỉ xử tội phạm tử hình bằng bắn súng thôi. Bởi hiện nay chưa có thuốc thì lấy đâu ra thuốc mà tiêm. Luật Thi hành án tử hình trong đó quy định về việc áp dụng hình thức tử hình bằng tiêm thuốc độc mới ban hành được 2 năm, không lẽ giờ lại sửa luật, sau đó đến năm 2015 khi nước ta có đủ cơ sở vật chất, điều kiện để thực hiện thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc thì lại sửa luật tiếp để khôi phục hình thức này thì rất mất thời gian, công sức. Thế nên tạm thời chỉ bổ sung vào Luật Thi hành án tử hình này một hình thức song song nữa là xử bắn từ giờ đến năm 2015 để khỏi mất công, tốn kém sửa luật.
Trước đó, trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội về việc thi hành án tử hình bằng thuốc độc quá chậm trễ, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cũng đã giải thích: “Mọi công việc chuẩn bị để áp dụng tiêm thuốc độc cơ bản đã xong, từ xây cơ sở cho đến trang thiết bị, đào tạo, chỉ thiếu mỗi thuốc”. Theo ông Cường, Nghị định của Chính phủ ghi rõ tên thuốc, mà đều là loại thuốc chưa sản xuất được ở trong nước, phải nhập. Thuốc phải nhập từ EU, trong khi liên minh này đang yêu cầu Việt Nam bỏ án tử hình. Thế nên khi biết được Việt Nam nhập thuộc về để phục vụ cho việc thi hành án tử hình, EU đã ngừng bán. Chính vì chưa có thuốc, nên đến nay cả nước còn hơn 500 người bị kết án tử hình, án đã có hiệu lực vẫn không thi hành được. Có người viết đơn xin được thi hành án do tâm lý căng thẳng. Ngành kiểm sát thừa nhận sự chậm trễ này đã gây áp lực lên hai phía, phía cơ quan giam giữ và phía tử tội.
Đại biểu Nguyễn Thanh Bình, tỉnh Hòa Bình, gay gắt trước Quốc hội rằng: “Không có gì khổ bằng chờ chết. Hiện nay 500 tử tù đang ngồi chờ vì một quyết định còn chưa mang nhiều tính thực tế của chúng ta. Đứng trước thực tế hàng trăm tử tội phải “dồn toa” chờ được thi hành án, nhiều đại biểu Quốc hội tha thiết đề nghị Bộ Y tế phải trả lời dứt khoát liệu có mua được thuốc hay nguyên liệu sản xuất thuốc, hoặc có thể bào chế ngay trong nước hay không. Thậm chí, nếu cần thiết phải đặt hàng các nhà khoa học và xem đây là việc trọng điểm quốc gia trong năm 2013. Đồng thời phải quản lý chặt tử tội, tránh việc bỏ trốn hoặc tự sát.
Như vậy, một lần nữa, những tranh cãi xung quanh vấn đề về các hình thức thi hành án tử hình lại cho thấy hậu quả của việc làm luật vội vàng và thiếu tầm nhìn của những cá nhân, cơ quan có liên quan tại Việt Nam.