I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Cần thống nhất thủ tục đăng ký khai sinh. Bài báo phản ánh: Giấy khai sinh là một trong những giấy tờ quan trọng nhất của một công dân và được xem là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân từ khi sinh ra. Công dân có quyền đăng ký khai sinh theo quy định pháp luật, hồ sơ đăng ký khai sinh cũng được quy định rõ, tạo điều kiện cho bất kỳ trường hợp nào cũng được quyền đăng ký khai sinh. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn những quy định chưa thống nhất liên quan đến giấy chứng sinh để công dân tiến hành đăng ký khai sinh.
Khoản 4 Điều 1 Nghị định 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực quy định: Người đi đăng ký khai sinh phải nộp tờ khai, giấy chứng sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn). Giấy chứng sinh do cơ sở y tế nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế thì giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
Trong trường hợp cán bộ tư pháp - hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em thì không bắt buộc phải xuất trình giấy chứng nhận kết hôn. Quy định này tạo điều kiện cho mọi trẻ em sinh ra đều được đăng ký khai sinh dù sinh trong hay ngoài cơ sở y tế. Nghị định hướng dẫn cụ thể hai trường hợp đăng ký khai sinh: nếu trẻ em sinh ra trong cơ sở y tế thì thủ tục phải có giấy chứng sinh theo mẫu, nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế thì giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng hoặc giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
Tuy nhiên, theo Điểm b Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/2012 của Bộ Y tế quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh thì trường hợp trẻ được sinh ra tại nhà hoặc tại nơi khác mà không phải là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, người thân thích của trẻ có trách nhiệm điền vào đơn đề nghị cấp giấy chứng sinh theo mẫu, nộp cho trạm y tế xã, phường để xin cấp giấy chứng sinh cho trẻ. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị cấp giấy chứng sinh, trạm y tế xã phải xác minh việc sinh và làm thủ tục cấp giấy chứng sinh cho trẻ. Trong trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn xác minh không được quá 05 ngày làm việc.
Như vậy giữa Thông tư 17 và Nghị định 06 chưa thống nhất về thủ tục đăng ký khai sinh dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng Nghị định 06 là văn bản pháp lý cao hơn Thông tư 17 theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên không áp dụng trường hợp đăng ký khai sinh ngoài cơ sở y tế có giấy chứng sinh mà phải sử dụng văn bản xác nhận của người làm chứng hoặc giấy cam đoan về việc sinh là có thực để đăng ký khai sinh cho trẻ em khi được sinh ra ngoài cơ sở y tế.
Ý kiến khác cho rằng, Bộ Y tế là cơ quan chủ quản trong vấn đề quản lý và sử dụng giấy chứng sinh (trước đây do Bộ Tư pháp in ấn, phát hành) nên phải áp dụng theo quy định chuyên ngành và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nên vẫn thụ lý giải quyết trường hợp đăng ký khai sinh nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế mà có giấy chứng sinh thuộc trường hợp theo Thông tư 17.
Từ những mâu thuẫn pháp lý nêu trên dẫn đến việc thụ lý giải quyết hồ sơ đăng ký khai sinh cũng khác nhau, có nơi áp dụng Nghị định 06, có nơi áp dụng Thông tư 17 dẫn đến việc không thống nhất, gây khó khăn cho người dân.
Thiết nghĩ, các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể và ban hành quy định thống nhất thủ tục đăng ký khai sinh hiện hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có yêu cầu đăng ký khai sinh.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Nhà đã mua tự dưng bị kê biên. Bài báo phản ánh: Nếu cứ hiểu theo BLDS để xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu bất động sản thì vô tình chúng ta đang phủ nhận giá trị của Luật Nhà ở và ngược lại.
Nạn nhân trong vụ việc này là ông Lã Hữu Long (phường 15, quận 5, TP.HCM), người đã mua căn nhà 173/117 đường Khuông Việt, quận Tân Phú (TP.HCM) với giá hơn 4,8 tỉ đồng. Hợp đồng mua bán nhà đã được công chứng vào đầu tháng 8-2012.
Căn nhà trên nguyên là của vợ chồng ông Nguyễn Tiến Cương thế chấp vay ngân hàng. Sau đó, căn nhà được THA quận Tân Phú kê biên để đảm bảo cho việc trả nợ. Cuối năm 2011, do vợ chồng ông Cương đã trả hết nợ nên THA quận ra quyết định giải tỏa kê biên. Đến năm 2012, vợ chồng ông Cương bán nhà trên cho ông Long.
Ngay sau khi công chứng xong, ông Long đã đến Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất quận Tân Phú làm thủ tục đăng bộ. Tuy nhiên, theo trình bày của ông thì do cán bộ văn phòng này nhập sai số quyết định của Chi cục THA quận từ 138 thành 183 nên ông Long không đăng ký sớm được. Lần nào ông lên hỏi cán bộ thụ lý hồ sơ cũng nói ông chưa cung cấp quyết định số 138 trong khi ông đã cung cấp rồi. Ông Long đến Chi cục THA quận hỏi thì được nơi đây trả lời là đã gửi quyết định 138 cho tất cả cơ quan liên quan, trong đó có Phòng TN&MT quận. Chi cục còn cho ông một bản phôtô để ông quay lại Phòng TN&MT hỏi tiếp. Sau khi kiểm tra đối chiếu, cán bộ của Phòng thừa nhận do lỗi nhập máy sai số văn bản. Đến khi hoàn tất thủ tục mang đến bộ phận đăng bộ thì bất ngờ ông nhận được câu trả lời “không được” vì căn nhà vừa bị Công an tỉnh Bình Thuận ra lệnh kê biên ngăn chặn vào ngày 22-3-2013 (!). Lý do: Để đảm bảo THA trong vụ ông Cương bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với số tiền gần 8 tỉ đồng.
Ông Long trình bày: “Tôi hết sức ngỡ ngàng không hiểu chuyện gì đang xảy ra vì trước đó căn nhà không bị cơ quan có thẩm quyền nào ngăn chặn, mua bán xong bốn tháng sau lại bị kê biên, nguy cơ mất trắng hàng tỉ đồng”. Cho rằng việc kê biên này là sai vì bản thân mua nhà ngay tình, hợp pháp nên ông đã khiếu nại Công an tỉnh Bình Thuận. Ngày 26-7, cơ quan này gửi văn bản cho ông Long khẳng định: Căn nhà đó vợ chồng ông Cương mua từ năm 2002, không phải bằng tiền từ việc chiếm đoạt tài sản do phạm tội mà có. Việc mua bán nhà giữa ông Cương và ông Long diễn ra ngay tình, đúng luật, chỉ có điều sau đó ông Long chậm trễ trong việc đăng ký xác lập quyền sở hữu nhà. Vì sự chậm trễ này mà khi công an tỉnh có yêu cầu xác minh nguồn gốc căn nhà thì cơ quan quản lý nhà đất quận Tân Phú không truy cập được chủ sở hữu mới.
Cũng theo văn bản, trước đó công an tỉnh đã yêu cầu Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất quận Tân Phú xác định một số vấn đề liên quan đến việc mua bán nhà. Cơ quan này đã trả lời do người mua chưa đăng ký nên căn nhà vẫn còn thuộc sở hữu của người bán. Vì thế, công an tỉnh cho rằng việc xác định ai là chủ sở hữu hợp pháp căn nhà là thuộc thẩm quyền của tòa án. Trước mắt, công an tỉnh vẫn tiếp tục kê biên, sau khi kết thúc điều tra, công an sẽ chuyển hồ sơ mua bán nhà giữa hai bên cho tòa án quyết định trong vụ án hình sự.
Khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở quy định: Quyền sở hữu nhà được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hợp đồng mua bán được công chứng. Khoản 1 Điều 64 Nghị định 71/2010 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở cũng tính thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà sau khi công chứng. Ngoài ra, Điều 248 BLDS cũng quy định: Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, thừa kế thì quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao. Theo đó, kể từ thời điểm được công chứng hợp đồng thì ông Long đã được chuyển giao quyền sở hữu nhà. Vậy phải chăng khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Cương, Công an tỉnh Bình Thuận đã làm sai trong việc kê biên nhà của ông Long?
Theo BLDS thì việc chuyển quyền sở hữu bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu. Luật Đất đai cũng có quy định tương tự đối với việc chuyển quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở lại có quy định khác về thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở như đã nêu trên. Viện dẫn thêm Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, luật sư Trần Hải Đức (Đoàn Luật sư TP.HCM) lưu ý: “Khi các luật có các quy định khác nhau thì các cơ quan chức năng phải ưu tiên luật chuyên ngành. Do đó, đối với các giao dịch liên quan đến nhà ở thì phải áp dụng Luật Nhà ở trước. Trong vụ việc cụ thể này, do căn nhà đã thuộc quyền sở hữu của ông Long nên cơ quan công an không thể kê biên nhà”.
ThS luật Dương Tuấn Lộc (nguyên giảng viên dạy môn luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM), nêu ý kiến: “Từ trước đến nay người ta vẫn tranh cãi về việc áp dụng luật nào. Nhưng nếu cứ hiểu theo BLDS để xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu bất động sản thì vô tình chúng ta đang phủ nhận giá trị của Luật Nhà ở và ngược lại. Điều này dẫn đến một thực tế khách quan là các cơ quan thường chọn giải pháp an toàn, đẩy thiệt thòi về phía người thứ ba mua bán ngay tình. Giới luật đã từng kiến nghị Bộ Tư pháp tháo gỡ nút thắt này nhưng đến nay chưa có kết quả”.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin Về ngày làm việc thứ chín của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. Bài báo phản ánh: Theo chương trình làm việc của Hội nghị, sáng 8-10, các đại biểu Hội nghị làm việc tại tổ để nghiên cứu, góp ý sửa trực tiếp vào dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) và các dự thảo nghị quyết, kết luận của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XI.
Chiều cùng ngày, các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và đại biểu tham dự Hội nghị nghỉ họp, Bộ Chính trị tiếp tục họp cho ý kiến về việc tiếp thu, giải trình ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng về các đề án trình Hội nghị.
Cuối buổi sáng và chiều cùng ngày, các đại biểu Hội nghị thảo luận tại tổ về các nội dung trên.
2. Báo PetroTimes có bài Bảo hiểm xã hội: Hội chứng "nhờn pháp luật". Bài báo phản ánh: Sau 6 năm đi vào thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) thể hiện nhiều bất cập và kẽ hở khiến các hành vi “lách luật” có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của người lao động. Những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT xảy ra rất đa dạng, với nhiều hình thức khác nhau, có nhiều trường hợp gây ra hậu quả nghiêm trọng, không chỉ thiệt hại về vật chất, ảnh hưởng đến quỹ BHXH, BHYT mà còn tác động xấu đối với trật tự, an toàn xã hội.
Cho đến thời điểm này, do chế tài xử phạt quá nhẹ, nhiều doanh nghiệp cố tình chiếm dụng BHXH và chấp nhận việc chịu phạt nhưng chưa có doanh nghiệp nào bị rút giấy phép kinh doanh do trốn, nợ BHXH.
Bà Nguyễn Thị Phương Mai, Giám đốc BHXH Hà Nội cho biết: Do doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT nên khi cần giải quyết các quyền lợi của mình như: ốm đau, thai sản, hưu trí, tai nạn lao động sẽ không thực hiện được. Trường hợp người lao động ở các doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT bị mất việc làm, cơ quan BHXH cũng không thể tiến hành chốt sổ BHXH nên người lao động sẽ không thể hoàn tất hồ sơ xin hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Theo bà Mai, một phần nguyên nhân dẫn tới việc tổng số nợ BHXH, BHYT tăng thời gian qua là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp làm ăn khó khăn, thất bát, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, cầu đường. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần nổi của tảng băng vì không phải gần đây tình trạng nợ, trốn đóng BHXH, BHYT của các doanh nghiệp mới diễn ra. Thực tế, kể cả ở giai đoạn làm ăn có lãi, rất nhiều doanh nghiệp vẫn cố tình trốn đóng hoặc chây ỳ không đóng, trong khi hàng tháng vẫn khấu trừ phần trăm tiền BHXH, BHYT từ tiền lương của người lao động.
Với doanh nghiệp có hàng nghìn công nhân, số tiền BHXH mà doanh nghiệp chiếm dụng của người lao động có thể lên tới nhiều tỉ đồng. Xét về thực chất, đây là hành vi chiếm đoạt tiền của người lao động, có thể xử lý hình sự. Thế nhưng, điều bất cập là theo luật hiện hành, hành vi này mới chỉ bị xử lý hành chính. Dù cơ quan BHXH các địa phương đã nhiều năm kiến nghị sửa luật nhưng đến nay vẫn chưa được thông qua.
Tại thời điểm này, theo Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 về hướng dẫn xử phạt trong lĩnh vực lao động. Mức phạt đối với các doanh nghiệp vi phạm quy định về đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp chỉ dừng ở mức 12% đến 15% tổng số tiền phải đóng. Điều đó có nghĩa, cho dù doanh nghiệp nợ bảo hiểm nhiều hay ít thì mức phạt cũng chỉ ở 12-15% và số tiền phạt so với số tiền trốn hay nợ bảo BHXH, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cũng chỉ như muối bỏ bể. Với số tiền chiếm dụng hàng tỉ đồng nếu đem gửi ngân hàng, doanh nghiệp sẽ thu lợi lớn nên tình trạng vi phạm ngày càng tràn lan, họ sẵn sàng vi phạm và chịu phạt.
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 138 Luật BHXH và Khoản 2 Điều 49 Luật BHYT, đối với người sử dụng lao động có hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH, BHYT thì ngoài việc phải đóng số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn phải đóng số tiền lãi của số tiền BHXH chưa đóng, chậm đóng theo mức lãi suất của hoạt động đầu tư quỹ BHXH trong năm; số tiền BHYT và tiền lãi của số tiền BHYT chưa đóng, chậm đóng theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.
Mức phạt theo “lãi suất” này quả là chưa đủ sức để răn đe. Chính vì vậy, các doanh nghiệp ngày càng “nhờn” và tìm mọi cách để lách luật, trục lợi từ những kẽ hở của pháp luật. Tâm lý thà đóng phạt còn hơn đóng đủ bảo hiểm đã tồn tại nhiều năm tại các doanh nghiệp.
Hiện nay, việc các cơ quan BHXH có thể làm là khởi kiện các doanh nghiệp ra tòa. Tuy nhiên thực tế cho thấy, dù thắng kiện nhưng số tiền đòi được cũng rất hạn chế... do còn nhiều vướng mắc. Theo Ông Nguyễn Dương, Phó trưởng phòng Thu - BHXH Hà Nội, nguyên nhân được các doanh nghiệp đưa ra là do tình trạng kinh tế khó khăn, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Nhưng cũng có một thực tế, không ít doanh nghiệp đang lợi dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động để sử dụng kinh doanh, đầu tư kiếm lời.
Cơ quan bảo hiểm muốn khởi kiện ra tòa thì thủ tục cũng rất phức tạp, việc mỗi tòa án lại tiếp nhận và thụ lý hồ sơ ở một khía cạnh riêng cũng tạo ra khó khăn cho cơ quan BHXH khi khởi kiện. Thủ tục, quá trình tiến hành xét xử vụ án thường kéo dài, số lượng doanh nghiệp nợ đọng lại nhiều, rồi khi khởi kiện thành công, việc thi hành án cũng khó khăn do thời gian thi hành án có thể kéo dài tới 5 năm...
Nếu doanh nghiệp tiếp tục chây ỳ, không thi hành phán quyết của tòa án, cơ quan BHXH cũng không thể làm gì được, thậm chí còn phải tạm ứng thêm lệ phí thi hành án. Nhiều doanh nghiệp còn giở chiêu trò rút hết tiền trong tài khoản để không thể thu hồi nợ cho nên khi tổ thu hồi nợ liên ngành tiến hành phong tỏa tài khoản của doanh nghiệp thì số dư trong tài khoản rất ít, chính vì thế việc thi hành án không thực hiện được. Bên cạnh đó, việc phong tỏa tài khoản ngân hàng của một doanh nghiệp cũng không hề dễ dàng vì dễ động chạm đến lợi ích của các ngân hàng. Trong trường hợp doanh nghiệp tuyên bố phá sản, các tài sản có giá trị cũng thường được thế chấp để vay ngân hàng nên dù bản án có hiệu lực pháp luật thì có muốn cưỡng chế, cơ quan thi hành án cũng không thể tịch thu được các tài sản đó.