I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an thành phố Đà Nẵng có bài “Thầy kiện” bị kiện. Bài báo phản ánh: Dù chưa hề được đào tạo qua trường luật, cũng không có giấy phép hành nghề luật sư nhưng ông Lê Văn Tình (1953, trú 40/1-Hòa Tây, Vĩnh Hòa, Nha Trang, Khánh Hòa) đi đâu cũng bảo mình là “luật sư” từng cãi thắng nhiều vụ kiện ở Khánh Hòa khiến nhiều người không am hiểu luật pháp cứ nhầm tưởng Tình là “luật sư”. Vậy nên sau đó nhiều người đã đưa thù lao và ký hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với Tình cũng như nhờ thực hiện các công việc khiếu kiện giúp mình. Cũng vì không có nghiệp vụ nên cuối cùng ông Tình đã bị “thân chủ” lôi ra tòa.
Gần đây nhiều người đã phản ánh với Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa rằng ông Tình thường mạo danh mình là “luật sư” thực hiện các hợp đồng dịch vụ pháp lý, nhận ủy quyền tham gia tố tụng trong nhiều vụ án dân sự, hành chính để nhận thù lao. Nhiều người đã mất tiền khi tin vào ông Tình. Được biết, Đoàn Luật sư Khánh Hòa cũng đã có công văn gửi Sở Tư pháp đề nghị sớm kiểm tra làm rõ và có biện pháp xử lý kịp thời đối với hành vi ký kết, thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý và việc hành nghề luật sư bất hợp pháp của ông Tình.
2. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Tòa mời đến 8 lần, giám định viên vẫn “tránh”... Bài báo phản ánh: Quá trình thụ lý giải quyết Đơn khởi kiện của ông Hòa, TAND huyện Bình Lục đã tiến hành trưng cầu giám định và ngày 7-5-2013, xét xử sơ thẩm tuyên buộc gia đình ông Đôn phải liên đới bồi thường cho gia đình ông Hòa hơn 211 triệu đồng.
Giám định tư pháp từng bị xem là “điểm nghẽn” trong hoạt động tư pháp. Và việc hai cấp tòa sơ thẩm, phúc thẩm dù mời đến 8 lần, nhưng giám định viên vẫn “tránh” dự tòa trong vụ án dân sự “Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” xảy ra tại tiểu khu Bình Tiến, thị trấn Bình Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam mới đây là một điển hình
Gia đình ông Đôn - bà Sen và gia đình ông Hòa - bà Tính là hàng xóm, có nhà cạnh liền kề nhau, nằm ở mặt đường QL, cạnh đường tàu Bắc - Nam thuộc tiểu khu Bình Tiến, thị trấn Bình Mỹ. Năm 1994, ông Đôn, bà Sen xây dựng một căn nhà kiên cố 1 tầng. Tháng 2-2001, xây tiếp tầng 2 và tháng 8-2009 xây thêm gian nhà mới kéo dài thêm phần nhà cũ đã có sẵn. Còn gia đình ông Hòa, năm 2000 đã xây dựng căn nhà 1 tầng mái bằng 50m2 liền kề với phần nhà cũ của ông Đôn, bà Sen xây dựng năm 1994. Sau khi gia đình ông Đôn xây thêm gian nhà mới, ngày 1-4-2010 ông Hòa gửi đơn khởi kiện yêu cầu gia đình ông Đôn phải bồi thường thiệt hại do đã dùng máy cắm cọc, xây dựng nhiều tầng gây nên lún nứt ở 4 góc tường với tổng số tiền là hơn 211 triệu đồng, trong đó 60 triệu đồng là chi phí giám định thiệt hại, còn hơn 151 triệu đồng là giá trị phần nhà bị ảnh hưởng.
Quá trình thụ lý giải quyết Đơn khởi kiện của ông Hòa, TAND huyện Bình Lục đã tiến hành trưng cầu giám định và ngày 7-5-2013, xét xử sơ thẩm tuyên buộc gia đình ông Đôn phải liên đới bồi thường cho gia đình ông Hòa hơn 211 triệu đồng. Cho rằng bản án được tuyên không khách quan, vi phạm tố tụng nghiêm trọng, gia đình ông Đôn kháng cáo.
Trước hết, chẳng biết có phải do “sơ suất” khi đánh máy hay không vì ông Đinh Khắc Tiệp – Giám định viên tư pháp thuộc Trung tâm công nghệ quản lý chất lượng công trình xây dựng Việt Nam (Trung tâm CNQLCLCTXD Việt Nam) không hề dự tòa, nhưng bản án vẫn thể hiện ông Tiệp tham gia tố tụng. Không phải mời một lần, mà riêng quá trình xét xử sơ thẩm, tòa đã “vời” ông Tiệp đến 5 lần, nhưng ông này vẫn “đi công tác”, không hề có mặt để giải thích tại tòa về kết luận giám định của mình.
Đến phiên phúc thẩm, dù được triệu tập đến lần thứ 3, ông Tiệp cũng không có mặt, đồng thời không hề gửi tới tòa bản thuyết minh về quá trình và kết quả giám định đã tiến hành. Tại phiên phúc thẩm, ông Đỗ Việt Hà, Phó GĐ Trung tâm CNQLCLCTXD Việt Nam đã “dự thay” ông Tiệp. Tuy nhiên, theo qui định của pháp luật, ông Hà không “đại diện” thay cho tư cách giám định viên của ông Tiệp vì không có ủy quyền, hơn nữa ông Hà cũng không phải là giám định viên, nên các LS bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho vợ chồng ông Đôn - bà Sen đã đề nghị HĐXX “bác” tư cách tham gia tố tụng của ông Hà.
Đáng quan tâm, tại tòa, ông Hà cho hay, cả Trung tâm CNQLCLCTXD Việt Nam không có ai là “giám định viên tư pháp”. Khi tiến hành các hoạt động giám định, trung tâm đều phải ký hợp đồng thuê khoán chuyên môn với các giám định viên bên ngoài. Hồ sơ vụ án thể hiện Trung tâm CNQLCLCTXD Việt Nam đã ký hợp đồng thuê khoán chuyên môn số 63B/2010/HĐKT-CQM với ông Đinh Khắc Tiệp để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hợp đồng này lại không có trong hồ sơ vụ án, nên các LS đã đề nghị tòa thu thập. Đồng thời, LS Nguyễn Phương Nam, Trưởng VPLS số 10, Đoàn LS TP Hà Nội cho hay, toàn bộ hồ sơ, giấy tờ, công văn của Trung tâm CNQLCLCTXD Việt Nam gửi tới tòa chỉ có chữ ký xác nhận của ông Đỗ Việt Hà với chức danh Phó GĐ (không phải là người đại diện pháp luật cho trung tâm) nhưng không hề có một văn bản ủy quyền hay phân công. Do đó, không thể nói hồ sơ giám định là hợp pháp, vì không được người có thẩm quyền hay có trách nhiệm xác nhận.
Bên cạnh đó, dù pháp luật qui định nội dung giao nhận đối tượng giám định “phải được lập thành văn bản” và khi việc trưng cầu giám định không kèm theo đối tượng giám định như công trình xây dựng... thì tổ chức chuyên môn, người trưng cầu giám định và các bên liên quan phải đến hiện trường nơi có vụ việc giám định được trưng cầu để lập biên bản bàn giao hiện trạng công trình xây dựng hoặc bộ phận công trình xây dựng... cho tổ chức chuyên môn thực hiện giám định. Thế nhưng, trong vụ án này, không hề có biên bản giao nhận đối tượng giám định, và chỉ có một cán bộ của Trung tâm CNQLCLCTXD Việt Nam cùng một thẩm phán đến hiện trường khảo sát. LS Nam cho rằng, việc tổ chức thực hiện giám định không hề xuống hiện trường và không có biên bản bàn giao đối tượng (là căn nhà của gia đình ông Hòa) thì đối tượng giám định theo “Bản kết luận giám định” không số ngày 19-12-2011 và “Báo cáo kiểm định chất lượng hiện trạng công trình” lập tháng 11-2010 có đúng là căn nhà của ông Hòa đang yêu cầu phải bồi thường hay không?
Tại phiên tòa, ông Hà cũng khẳng định, hoạt động giám định xây dựng theo qui định của pháp luật phải có “Đề cương giám định” trước khi tiến hành. Tuy nhiên, “Đề cương” này được lập thiếu rõ ràng, không đưa ra được phương pháp thực hiện cũng như dùng các thiết bị gì để giám định mà chỉ tiến hành khảo sát và lập dự toán sửa chữa căn nhà, trong khi đây là yêu cầu bắt buộc phải thể hiện trong kết luận giám định tư pháp xây dựng. Trưng cầu giám định trong vụ việc này nhằm xác định nhà ông Hòa bị lún, nứt có phải do việc xây nhà của gia đình ông Đôn - bà Sen gây ra hay không? Nhưng trong Bản kết luận giám định, Trung tâm CNQLCLCTXD Việt Nam chỉ thể hiện phương pháp xác định giá trị thiệt hại tính giá trị ngôi nhà của ông Hòa.
Từ những lý do trên cho thấy, việc Bản án sơ thẩm tuyên buộc ông Đôn - bà Sen phải chịu chi phí 60 triệu đồng cho việc giám định là không đúng với qui định tại khoản 2 Điều 138 Bộ Luật TTDS, vì việc trưng cầu giám định này các bị đơn không hề được biết, không được tòa sơ thẩm thông báo. Đáng nói hơn, việc gia đình ông Hòa ký “hợp đồng” yêu cầu giám định và trực tiếp trả khoản tiền 60 triệu đồng cho Trung tâm giám định (không thông qua tòa án) là việc làm “khó hiểu”, vì theo luật, cơ quan trưng cầu phải thanh toán chi phí giám định. Việc “làm tắt” này đang khiến dư luận nghi ngờ tính khách quan, độc lập của kết quả giám định.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Giảm tải cho công tác chứng thực…Bài báo phản ánh: Mặc dù Nghị định 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký quy định việc tiếp nhận và trả kết quả chứng thực bản sao phải thực hiện trong buổi làm việc (trừ chứng thực với số lượng lớn) nhưng thực tế hiện nay, công dân vẫn phải chờ đợi với thời gian nhiều hơn quy định…
Ở rất nhiều phường trong khu vực nội thành của Hà Nội hiện nay, nếu công dân có yêu cầu chứng thực bản sao vào buổi sáng thì kết quả sẽ được trả trong buổi chiều; nếu nộp trong buổi chiều thì phải chờ đến ngày hôm sau. Tình trạng này cũng xảy ra ở một số thành phố lớn, nhu cầu chứng thực cao.
Theo quy định của Nghị định 79/CP: “Việc tiếp nhận yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính trong thời gian làm việc buổi sáng hoặc buổi chiều thì phải được thực hiện chứng thực ngay trong buổi làm việc đó; trường hợp yêu cầu chứng thực với số lượng lớn thì việc chứng thực có thể được hẹn lại để chứng thực sau nhưng không quá 2 ngày làm việc”.
Quy định như vậy nhưng không phải địa phương nào cũng thực hiện được. Một số địa phương (Yên Bái, Lâm Đồng, Lào Cai, Thái Nguyên…) quy định việc tiếp nhận giải quyết yêu cầu chứng thực bản sao được thực hiện “trong ngày”. Nhiều địa phương cẩn trọng thì ghi theo đúng quy định tại Nghị định 79/CP được niêm yết tại trụ sở UBND các phường, xã (Ninh Bình, Sóc Trăng)…Còn “mạnh dạn” như Lai Châu thì “giải quyết ngay khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ”.
Như vậy có thể thấy, thực tế hiện nay dù Nghị định quy định trả kết quả ngay trong buổi làm việc nhưng nhiều địa phương chỉ trả được trong ngày. Tình trạng này, Bộ Tư pháp cũng thừa nhận: “Một số UBND cấp huyện, cấp xã vẫn chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu chứng thực của nhân dân, có hiện tượng quá tải trong việc chứng thực bản sao tại một số nơi do tình trạng “lạm dụng”, “sính” bản sao trong khi pháp luật đã quy định chỉ cần có bản chính để đối chiếu, đặc biệt trong thời gian tuyển sinh thì yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính tăng đột biến gây quá tải cho các cơ quan thực hiện chứng thực và lãng phí không cần thiết cho xã hội”.
Thêm một lý do mà bản sao chưa được trả theo đúng quy định đó là việc thiếu cán bộ ở cấp cơ sở hiện nay. Theo quy trình, người dân có yêu cầu chứng thực phải nộp hồ sơ tại bộ phận một cửa, sau đó cán bộ một cửa kiểm tra, hợp lệ mới trình lãnh đạo UBND cấp xã ký, đóng dấu. Tuy nhiên, hiện nay cán bộ tư pháp cơ sở nhiều nơi vẫn còn thiếu, lại phải đảm đương nhiều nhiệm vụ khác.
Trong khi đó, lãnh đạo UBND cấp xã cũng không phải lúc nào cũng có mặt ở trụ sở để có thể ký ngay các giấy tờ bản sao nên nhiều khi chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu chứng thực của nhân dân. Đó là chưa kể đến kỹ năng của cán bộ trong việc phát hiện giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ giả hoặc bị tẩy xóa nhiều nơi còn hạn chế.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Luật chuyên ngành phải “né” Bộ luật dân sự?. Bài báo đưa tin: Tại hội thảo góp ý về Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 do Trường ĐH Luật TP.HCM phối hợp cùng Hội Luật gia Việt Nam tổ chức, nhiều đại biểu quan tâm đến chế định hợp đồng dân sự.
Theo TS Lê Minh Hùng (Trưởng bộ môn Luật Dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM), thuật ngữ “hợp đồng dân sự” được sử dụng trong BLDS không tương thích với vai trò luật chung của bộ luật này, dễ gây ngộ nhận trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật. Theo nghĩa rộng, khái niệm dân sự bao hàm cả các lĩnh vực khác như thương mại, hôn nhân gia đình… Vì vậy, cần phải bỏ cái đuôi “dân sự” kèm theo trong tiêu đề của hợp đồng.
Về mặt nội dung, TS Nguyễn Quốc Vinh (Công ty luật Tilleke & Gibbins) nhận xét hợp đồng dân sự sẽ không bao giờ bị (được) hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt nếu nó nằm ngoài 13 loại hợp đồng điển hình được quy định tại BLDS và các bên tham gia ký kết quên không thỏa thuận về việc hủy bỏ hay đơn phương chấm dứt hợp đồng. Ngoài ra, ngay trong 13 loại hợp đồng điển hình thì BLDS cũng không quy định điều kiện hủy bỏ hay đơn phương chấm dứt trong một số trường hợp. Ví dụ, hai bên ký hợp đồng vay tiền nhiều kỳ, đang thực hiện hợp đồng, bên cho vay nhận thấy tình hình kinh doanh của bên vay không tốt nên không muốn cho vay tiếp. Giả sử các bên không có thỏa thuận về đơn phương chấm dứt hợp đồng thì bên cho vay sử dụng điều khoản nào của BLDS để chấm dứt hợp đồng vay?
Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng BLDS cần lược bớt các quy định mà luật chuyên ngành đã điều chỉnh để tránh tình trạng chồng chéo. Tuy nhiên, PGS-TS-Luật sư Chu Hồng Thanh lại có quan điểm ngược lại. Ông cho rằng BLDS là luật gốc, là nền tảng cho các luật khác. Vì vậy, nếu vấn đề nào BLDS đã quy định rõ thì luật chuyên ngành không được điều chỉnh nữa.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online có bài Doanh nghiệp "chết" nhiều nhưng "khai tử" ít. Bài báo phản ánh: Số lượng doanh nghiệp tự giải thể hoặc ngưng hoạt động trên thực tế lên đến hàng chục ngàn nhưng sau 9 năm thi hành Luật phá sản 2004, chỉ có vài trăm doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu toà án tuyên bố phá sản.
Báo cáo tổng kết thi hành Luật phá sản của Tòa án nhân dân tối cao, cho biết sau 9 năm thi hành Luật phá sản 2004, tòa án chỉ thụ lý được khoảng 330 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản và quyết định mở thủ tục phá sản cho trên 230 trường hợp nhưng con số tuyên bố phá sản cũng chỉ trên 80 trường hợp.
Trong khi đó, tại buổi họp góp ý dự thảo Luật phá sản sửa đổi được tổ chức tại Cần Thơ vào sáng nay (7-10), ông Huỳnh Văn Tiếp, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ, cho biết từ đầu năm 2013 đến nay, thực tế có đến 40.000-50.000 doanh nghiệp trong cả nước buộc phải tự giải thể hoặc ngưng hoạt động.
Riêng tại Cần Thơ, báo cáo của Tòa án nhân dân Cần Thơ, cho biết trong khoảng thời gian nêu trên, đơn vị này chỉ thụ lý được 5 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nhưng cũng chỉ tuyên bố phá sản cho 3 trường hợp, dù ông Huỳnh Văn Tùng, Sở Kế hoạch và Đầu tư Cần Thơ khẳng định: “Tính đến cuối tháng 9-2013, trong số 13.142 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố (bao gồm cả chi nhánh văn phòng đại diện), thực tế hiện chỉ còn 11.812 doanh nghiệp hoạt động, số còn lại đã ngưng hoạt động hoặc tự giải thể”.
Lý giải nguyên nhân khiến việc công bố phá sản cho doanh nghiệp gặp khó, nhiều đại biểu tham dự buổi họp góp ý trên, cho biết do thủ tục phá sản quá phức tạp, rườm rà hoặc thiếu đồng bộ giữa Luật phá sản với các luật khác như luật hình sự, dân sự, doanh nghiệp…, dẫn đến nhiều doanh nghiệp thực tế đã ngưng hoạt động nhưng không nộp đơn yêu cầu công bố phá sản.
Thực tế, báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, cho thấy có đến 55/95 điều của Luật Phá sản 2004 bất cập, vướng mắc cho việc giải quyết của tòa án.
Chính những lý do trên, việc ban hành một Luật phá sản mới, thay thế Luật phá sản 2004 là rất cần thiết. “Tuy nhiên, Luật phá sản mới phải bảo đảm trình tự thủ tục, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản công bằng, công khai, dễ hiểu, thực hiện một cách nhanh, gọn… tránh những bất cập đang tồn tại của Luật phá sản 2004”, ông Tiếp cho biết.
2. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Trung ương thảo luận Báo cáo kiểm điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Bài báo phản ánh: Sáng 7/10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành họp phiên toàn thể tại hội trường.
Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, thay mặt Bộ Chính trị điều hành phiên họp.
Đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, thay mặt Bộ Chính trị trình bày Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2013.
Cuối buổi sáng và chiều cùng ngày, các đại biểu Hội nghị thảo luận tại tổ về các nội dung trên.