I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin về Phiên họp thứ 21, Ủy ban Thường vụ QH khóa XIII: Thảo luận về hai dự án luật. Ngày 10-9, tiếp tục chương trình phiên họp thứ 21 của Ủy ban Thường vụ QH khóa XIII, các đại biểu cho ý kiến về dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình.
Buổi sáng, các đại biểu đã nghe đại diện Bộ Công an trình bày Tờ trình dự án luật và Báo cáo thẩm tra sơ bộ về dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài.
Buổi chiều, các đại biểu đã cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình. Tờ trình về dự án Luật của Chính phủ nêu rõ: Trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình CNH, HÐH đất nước và hội nhập quốc tế, xã hội Việt Nam đang chịu những tác động tích cực và tiêu cực, không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về mặt văn hóa, xã hội. Dự thảo Luật bổ sung, sửa đổi lần này nhằm tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình còn nhiều bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành. Ðồng thời, bổ sung một số quy định mới để kịp thời điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình đã và đang phát sinh trong thực tiễn mà chưa được Luật hiện hành quy định hoặc quy định không cụ thể. Theo đó, dự thảo Luật đã sửa đổi 64 điều, bổ sung mới 53 điều so với Luật hiện hành.
Các đại biểu cũng đã cho ý kiến về nhiều nội dung, chung quanh chế định ly thân; chế độ tài sản của vợ chồng; về cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc thuận tình ly hôn; vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo... Một số đại biểu nêu vấn đề, trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và trào lưu thế giới hiện nay, điều kiện kết hôn đồng tính đã được nhiều nước công nhận. Ở nước ta, Luật cần rõ ràng, cụ thể nên xem xét công nhận thực tế và theo sự công nhận của đông đảo cộng đồng xã hội, phù hợp nhận thức của xã hội, tôn trọng quyền con người, phù hợp các công ước quốc tế. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng các nội dung liên quan ly thân, hôn nhân người cùng giới tính và một số vấn đề khác trong dự án luật còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau, vì vậy Ban soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu thấu đáo, kỹ lưỡng trong thời gian tới trước khi đưa vào dự án luật này và trình QH thời gian tới.
2. Cũng về vấn đề liên quan đến dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình Báo Lao động có bài Hôn nhân đồng giới - không thể lờ đi được. Bài báo phản ánh: Trích dẫn nguyên tắc nhà nước pháp quyền: Công dân được làm những gì pháp luật không cấm, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý chỉ trích quy định: Không cấm, nhưng cũng không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính, là “dở dang”, không thể lờ đi được. “Chúng ta nên mạnh dạn, vì quyền con người” - ông nói.
Vấn đề nóng nhất trong phiên thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi tại Thường vụ Quốc hội (TVQH) chiều qua 10.9, chính là vấn đề hôn nhân giữa những người cùng giới tính trước quy định rất chung chung của dự thảo luật là không cấm, nhưng cũng không công nhận.
Phó Chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn ngay lập tức đặt vấn đề: “Nhà nước không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính, nhưng nếu họ chuyển giới, khác rồi, ngon lành rồi, nam ra nam, nữ ra nữ rồi, thậm chí còn đẹp hơn người đúng giới nữa, thì lúc đó có công nhận không?”.
Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu cũng hỏi thêm “lúc đó có hiểu là khác giới không?”.
Phó Chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn tiếp tục phát biểu “pháp luật hiện chưa công nhận chuyện chuyển đổi giới tính. Tôi cũng chưa biết là (những người sau khi chuyển đổi giới tính) có thể có con hay không”.
Viện dẫn quy định của ngành văn hóa “2 ông đàn ông ôm hôn nhau là bị phạt chứ đừng nói ở với nhau”, ông Huỳnh Ngọc Sơn đề nghị chưa nên đưa quy định này vào luật mà “cần tính toán kỹ. Trước hết là việc công nhận chuyển đổi giới tính đã”.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Nguyễn Văn Hiện, từng giữ chức Chánh án TAND TC, cho biết ông “tán đồng dừng ở mức cấm thì không cấm, nhưng cũng không thừa nhận để “anh thích thì anh có thể về ở với nhau”.
Bắt đầu bằng thực tế “hôn nhân đồng giới là một vấn đề xã hội mà nhiều nước công nhận, cũng quyền con người phải tôn trọng”, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Phan Trung Lý phê phán “những quy định thế này rất dở dang”. Trước đây ta cấm, giờ lờ đi, không cấm, nhưng cũng không làm phát sinh (không công nhận).
Nêu nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền là công dân được làm những gì pháp luật không cấm, và “luật không cấm có nghĩa là người dân được làm”, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đề nghị: Pháp luật phải rõ ràng. Chứ “không thể lờ đi”. Ông kêu gọi “chúng ta mạnh dạn vì quyền con người để công nhận”. Và phải công nhận để (có cơ sở) giải quyết hậu quả pháp lý.
Một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi trong dự thảo luật sửa đổi là quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và ly hôn phải đăng ký.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý phản đối “ly hôn là một nét lặng trong đời sống vợ chồng, vì sao bắt đi đăng ký ly hôn”. Trong khi Phó Chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn thì bình luận ly thân “giống như chuyện thường ngày, bà ngủ một giường tôi ngủ một giường, giờ đưa ra ngoài đăng ký, công nhận là không thực tế”, bởi có khi “mấy hôm dụ khị là hết ly thân”.
Với quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Chủ nhiệm Ủy ban KHCN và MT của QH Phan Xuân Dũng đặt câu hỏi về việc quản lý: “Việc mang thai vì mục đích nhân đạo thì sẽ quản lý thế nào? Giờ chúng ta mới quy định trong luật trong khi nhiều cặp họ không “làm” trong nước đâu, họ làm ở nước ngoài”. Theo ông, luật nên quy định theo hướng tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng mang thai hộ ở nước ngoài có thể làm thủ tục trong nước”.
Phó Chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn nói ông nhất trí, nhưng cần có “những điều kiện thực thi” khi việc mang thai, sinh đẻ có khi ảnh hưởng cả đến tính mạng người mang thai.
“Nói tự nguyện, về mục đích nhân đạo, nhưng kèm đó không có điều kiện gì ràng buộc trách nhiệm chăm lo sức khỏe, hay ký kết hợp đồng, nếu sau khi đẻ không giao con mà cho, bán cho người khác thì xử lý ra sao?”- ông nói, đồng thời đề xuất luật quy định rõ “người nhờ mang thai hộ phải có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe từ lúc mang đến lúc đẻ. Cần có một hợp đồng để làm căn cứ xử lý”.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Nhân dân điện tử có bài Những điểm cần điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp 2005. Bài báo phản ánh: Luật Doanh nghiệp 2005 đã và đang phát huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế đất nước, song cũng bộc lộ một số điểm cần tiếp tục bổ khuyết, điều chỉnh, tiêu biểu là một số vấn đề sau:
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về tên và thuơng hiệu doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp quy định Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tên doanh nghiệp (DN), nhưng chưa có quy định cụ thể hóa chế định tên doanh nghiệp; chưa có quy định về mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký tên doanh nghiệp và thủ tục đăng ký bảo hộ thương hiệu; Đặc biệt, chưa có quy định cụ thể nhằm hạn chế và khắc phục hiện tuợng trùng hoặc nhầm lẫn, tranh chấp tên doanh nghiệp giữa các tỉnh, địa phương và các ngành, loại hình DN.
Đồng thời, cần bổ sung quy định về tiêu chí đặt tên Tập đoàn, Tổng công ty, gắn với cơ cấu tổ chức và quy mô vốn từng đơn vị để tạo thuận lợi và bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư.
Thứ hai, hoàn thiện quy định điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp quy định các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; Tuy nhiên, cần sửa đổi, bổ sung danh mục ngành nghề kinh tế quốc dân, tạo thuận lợi cho việc đăng ký kinh doanh và thủ tục xuất nhập khẩu phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, với các chuẩn mực quốc tế và khu vực, tránh cách hành xử khác nhau của các cơ quan nhà nước trước các ngành nghề kinh doanh mới phát sinh trong thực tiễn.
Bổ sung một số quy định liên quan đến vấn đề tăng, giảm vốn điều lệ công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên gắn với điều kiện kinh doanh một số ngành, nghề nhất định, bảo đảm minh bạch và lành mạnh môi trường kinh doanh.
Đặc biệt, Luật DN cũng cần bổ sung cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm trong đăng ký kinh doanh nói riêng và trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp nói chung .
Thứ ba, điều chỉnh quy định về báo cáo tài chính của doanh nghiệp
Báo cáo tài chính hàng năm mà Luật Doanh nghiệp quy định các DN phải gửi tới cơ quan đăng ký kinh doanh còn mang tính hình thức, vừa quá chi tiết và phức tạp, vừa thiếu tính thiết thực phục vụ yêu cầu quản lý và hoạch định chính sách. Vì vậy, cần sửa đổi quy định về chế độ báo cáo hàng năm tình hình kinh doanh của DN với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế theo hướng: quy định nội dung báo cáo phù hợp với chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan, giảm bớt giấy tờ cho DN và đảm bảo nội dung thông tin thật sự có giá trị cho yêu cầu quản lý nhà nước.
Thứ tư, hình thành hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh thống nhất từ Trung ương xuống địa phương
Ba loại nghiệp vụ về đăng ký kinh doanh như: đăng ký và bảo hộ tên DN; đăng ký về người thành lập và quản lý DN; đăng ký chi nhánh, văn phòng đại diện, đăng ký DN mẹ-con, về bản chất, chúng phải được xử lý trên cơ sở thống nhất thông tin và phân cấp quản lý trong phạm vi cả nước. Bởi vậy, cần bổ sung trong Luật Doanh nghiệp quy định về thiết lập hệ thống cơ quan và hệ thống thông tin đăng ký kinh doanh thống nhất. Cơ quan quản lý, hướng dẫn công tác đăng ký kinh doanh cấp Trung ương phải đủ mạnh để đáp ứng kịp thời các yêu cầu thống nhất nghiệp vụ trên phạm vi cả nước. Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện là cấp gần nhất với doanh nghiệp và giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, đồng thời xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật hiện hành. Điều này giúp giảm thiểu và xử lý kịp thời những tranh chấp, khiếu nại giữa DN với cơ quan đăng ký kinh doanh; giữa các DN với nhau mà không có cơ quan có thẩm quyền và cơ sở pháp lý để giải quyết.
Đồng thời, cần hoàn thiện hệ thống thông tin về DN, nối mạng thống nhất trong cả nước. Cung cấp thông tin và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật có chất lượng phục vụ tốt cho việc đăng ký kinh doanh cũng như mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN v.v..
Thứ năm, tăng cường các chế tài đủ nghiêm khắc nhằm bảo đảm chấp hành pháp luật trong kinh doanh của doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp cần bổ sung những chế tài hành chính và tài chính nghiêm khắc, nghiên cứu áp dụng rộng rãi quy định tước quyền kinh doanh có thời hạn cần thiết, nhằm bảo đảm yêu cầu phòng ngừa và xử lý kịp thời vi phạm những quy định về sửa đổi, bổ sung điều lệ; thông tin bố cáo thành lập, thay đổi chuyển quyền sở hữu tài sản; lập và nộp báo cáo tài chính; thông báo nội dung thay đổi đăng ký kinh doanh; tạm ngừng hoặc làm thủ tục giải thể; và các quy định về quản lý nội bộ của DN theo Luật Doanh nghiệp.
Đặc biệt, cần bổ sung các quy định bảo vệ lợi ích các cổ đông nhỏ, giảm thiểu sự lũng đoạn của cổ đông lớn, thu hẹp những mâu thuẫn nội bộ phát sinh, dẫn tới nguy cơ đổ vỡ DN, đình trệ sản xuất, hoặc làm giảm hấp dẫn của các công ty cổ phần trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó có việc bảo đảm đồng thuận và giới hạn trong tăng vốn cổ phần các cổ đông.
Ngoài ra, cần quy định các nội dung và chế tài bảo đảm phạt DN và người đứng đầu DN khi vi phạm các quy định của Luật Lao động, nhất là trong thời hạn ký hợp đồng lao động và các nội dung, điều khoản bắt buộc theo hướng dẫn của Bộ lao động Thương binh và Xã hội về tiền lương, thời giờ làm việc (làm bình thường và làm thêm), thời giờ nghỉ ngơi; chế độ trả trợ cấp thôi việc cho người lao động, đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho người lao động; cũng như đăng ký thỏa ước lao động và nội quy lao động với Sở Lao động Thương binh và Xã hội, cấp sổ Lao động cho người lao động.
Thứ sáu, cụ thể hoá cơ chế phối hợp quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
Cho tới nay, trong Luật Doanh nghiệp còn nhiều khoảng trống về quy định phối hợp quản lý giữa các cơ quan trong công tác “hậu kiểm”, bảo đảm trách nhiệm và quyền hạn cụ thể trong hướng dẫn và giám sát việc chấp hành pháp luật của DN; cập nhật tình trạng DN trên thực tế; trách nhiệm nhận, xử lý và khai thác, lưu trữ báo cáo tài chính của DN. Do vậy, trên thực tế nhiều DN đã từ chối báo cáo với các cơ quan chức năng, làm giảm hiệu lực quản lý đối với các cơ quan này; đồng thời, nhiều chính sách ưu đãi của các ngành và địa phương đã không đến được với DN.
Thực tế còn cho thấy, cần tiến tới sử dụng thống nhất một mã số đăng ký kinh doanh, mã số thuế và mã số hải quan cho DN; phân cấp rõ ràng, cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước các cấp đối với các DN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.., nhất là giữa cơ quan cấp đăng ký kinh doanh với cơ quan thuế, quản lý môi trường, lao động và UBND các cấp; ngăn chặn hiệu quả các hiện tượng cố tình vi phạm Luật Doanh nghiệp cả từ hai phía: DN và các cơ quan quản lý DN…
2. Báo Kinh tế và Đô thị Online có bài Áp dụng Luật Xử phạt vi phạm hành chính: Chưa thể thực thi vì thiếu hướng dẫn. Bài báo phản ánh: Ngày 20/6/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Xử phạt vi phạm hành chính, thời hạn có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/7/2013, thay thế Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 2002.
Điều đó cũng có nghĩa, tất cả các văn bản dưới luật, các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính với khoảng 120 văn bản các loại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như: Xây dựng, giao thông đường bộ, đường sắt; trật tự an toàn xã hội; quản lý và sử dụng đất đai; Thuế; Hải quan; quản lý thị trường… được ban hành căn cứ vào Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 đã hết hiệu lực. Tuy nhiên, Luật Xử phạt vi phạm hành chính mới ra đời chưa có các văn bản dưới luật như Nghị định và Thông tư hướng dẫn nên chính quyền các địa phương, cơ sở rất khó thực hiện xử phạt đối với các vi phạm. Đây là một trong những khúc mắc hiện nay khi mà các văn bản dưới luật chưa bắt kịp với đòi hỏi thực tế của xã hội.
Trước đây, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động xây dựng; kinh doanh BĐS; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở đang áp dụng theo Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/2/2009 của Chính phủ. Theo đó, các căn cứ chính để ban hành Nghị định dựa trên cơ sở của Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003; Luật Nhà ở số 56/2005/QH11 ngày 29/11/2005; Luật Kinh doanh BĐS số 63/2006/QH11 ngày 29/6/2006 và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 2/7/2002 của UBTV Quốc hội và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 04/2008/UBTVQH12 ngày 2/4/2008. Xử phạt vi phạm hành chính đối với công trình vi phạm trật tự xây dựng là một trong những giải pháp nhằm thiết lập lại trật tự quản lý đô thị. Tuy nhiên, nếu áp dụng xử phạt theo quy định cũ là không hợp lý trong khi Luật mới chưa thể áp dụng.
Ông Phan Văn Bảo - Chánh Thanh tra Sở Xây dựng Hà Nội cho biết, thực tế việc ban hành Luật mới trong khi các văn bản dưới Luật chưa bắt kịp đã khiến cho công tác xử lý vi phạm hành chính trong trật tự xây dựng rơi vào "thế khó". Nhiều cơ quan quản lý gặp khó khăn trong việc ban hành quyết định xử phạt trong giai đoạn này. Được biết, để triển khai Luật Xử phạt vi phạm hành chính, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho 19 bộ, ngành chủ trì xây dựng 56 Nghị định liên quan đến các lĩnh vực quản lý Nhà nước khác nhau. Tuy nhiên, đến nay phần lớn các Nghị định vẫn còn nằm ở dạng dự thảo hoặc thẩm định dự thảo và chưa có bất cứ một Nghị định quy định Xử phạt vi phạm hành chính trong bất kể lĩnh vực nào được ban hành để hướng dẫn, triển khai thực hiện Luật Xử phạt vi phạm hành chính.
Vấn đề đặt ra là, trong giai đoạn này chính quyền các địa phương phải xử lý thế nào để đảm bảo đúng luật đối với các vi phạm khi chưa có đầy đủ khung pháp lý? Trong khi thực tế, các hành vi vi phạm hành chính vẫn không ngừng xảy ra trong đời sống xã hội.