1. Báo điện tử của Chính phủ có bài: 9 Luật có hiệu lực từ 1/7/2013. Theo đó, từ ngày 01/7/2013, 9 Luật sẽ có hiệu lực gồm: Luật Thủ đô; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế; Luật xử lý vi phạm hành chính; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật điện lực; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư; Luật hợp tác xã; Luật dự trữ quốc gia; Luật xuất bản.
Báo Giao thông vận tải có bài Luật “treo” vì chưa xử trách nhiệm cá nhân. Bài báo phản ánh: Luật quy định văn bản hướng dẫn chi tiết phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm với luật. Nhưng hiện nay, việc xin hoãn, lùi thời hạn trình các văn bản hướng dẫn đang diễn ra khá phổ biến. Thậm chí có những luật đã có hiệu lực hơn 10 năm vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.
Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có ai bị kiểm điểm vì sự chậm trễ này. Theo các chuyên gia, đã đến lúc phải quy trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân khi không đảm bảo tiến độ, chất lượng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh.
Tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XIII (vừa kết thúc), Luật Đất đai (sửa đổi) dự kiến sẽ được thông qua. Tuy nhiên, đến phút chót, việc này đã phải hoãn lại, mà lý do theo Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc là do cơ quan soạn thảo chưa chuẩn bị đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành. Không chỉ có Luật Đất đai (sửa đổi), rất nhiều luật khác cũng rơi vào tình trạng tương tự, điển hình nhất là Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực từ hôm nay (1/7), song đến giờ phút này cơ quan soạn thảo vẫn chưa ban hành kịp các văn bản hướng dẫn.
Đánh giá về thực trạng trên, ông Đỗ Văn Đương, Thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cho biết: “Một thực tế cho thấy, nhiều dự án luật đưa ra vội vàng, việc thảo luận không kỹ nên chỉ dừng lại luật khung, luật “ống”, dẫn đến thực trạng luật “treo”. Theo ông Đương, khi xây dựng các dự án luật, để đảm bảo tính thực thi, cơ quan soạn thảo cần phải khảo sát kỹ, đánh giá tác động của dự án luật, đồng thời chuẩn bị đầy đủ các văn bản hướng dẫn chi tiết đi kèm.
Bên cạnh đó, cơ quan soạn thảo nhất thiết phải có những chuyên gia giỏi, tâm huyết. Bởi, trong quá trình xây dựng dự thảo luật, thực tế là có sự tham gia của không ít những người mới ra trường, chưa có nhiều kinh nghiệm. “Hệ quả cuối cùng là luật ban hành ra không triển khai được, không có hiệu lực trong thực tế”, ông Đương nhận xét.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, bà Lê Thị Nga cũng cho rằng, để xảy ra tình trạng trên có một phần là do những người trực tiếp soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành luật có trình độ yếu kém, làm việc theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp về”. “Tuy nhiên, điều lạ là hàng chục năm nay chưa thấy cán bộ nào bị thôi việc hay giáng chức về việc chậm ban hành văn bản hay ra những văn bản bất hợp lý” - bà Nga đánh giá.
Một nguyên nhân khác khiến việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật diễn ra tùy tiện, theo bà Nga là do các cơ quan soạn thảo văn bản hướng dẫn luật chưa tuân thủ đúng quy trình. “Khi xây dựng các văn bản, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật, các cơ quan có thẩm quyền chỉ nói sẽ ban hành sớm, không cho biết tiến độ thời gian cụ thể thế nào. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan soạn thảo, ban hành luật cũng còn nhiều vấn đề chồng chéo. Có khi trong một tuần, một tháng mà các bộ liên tục đưa ra nhiều quan điểm khác nhau trong cùng một chính sách, thể hiện sự bất nhất, thiếu tầm nhìn và thiếu vai trò điều phối trong tư duy quản lý điều hành” - bà Nga nói. Bà Nga cũng cho rằng, việc giám sát tiến độ thời gian ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền thời gian qua cũng chưa được sát sao. Để khắc phục tình trạng trên, Quốc hội cần sớm tiến hành giám sát tối cao về chấp hành Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, Chính phủ cần xây dựng cơ chế thẩm định thông tư khách quan hơn, tiến tới bổ sung vào luật và tăng thẩm quyền cho cơ quan kiểm tra văn bản sau khi ban hành.
Trong khi đó, ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp cho rằng, vấn đề luật “treo”, luật “nợ” thông tư, nghị định hướng dẫn giống như một thứ bệnh lâu nay không được quan tâm. “Việc xin hoãn, lùi thời hạn trình các văn bản hướng dẫn đang diễn ra khá tùy tiện nhưng chưa có ai bị kiểm điểm vì sự chậm trễ này. Chẳng hạn như, Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 1/7 là có hiệu lực nhưng đến nay còn rất nhiều văn bản quy định chi tiết thi hành chưa kịp ban hành và có hiệu lực để thực thi. Đã đến lúc phải quy trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân khi không đảm bảo tiến độ, chất lượng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh”, ông Sơn nói.
2. Báo Tuổi trẻ Online có bài Doanh nghiệp ngoại ồ ạt thuê đất “chui”. Bài báo phản ánh: UBND tỉnh Bến Tre cho biết đến thời điểm này đã xác định được 10 doanh nghiệp (DN) nước ngoài thuê đất của dân trái pháp luật với tổng diện tích hơn 82ha.
Các DN nước ngoài này thuê đất từ nhiều năm nay, có nơi đã thuê tới năm năm nhưng mãi đến nay cơ quan chức năng mới phát hiện. Đáng chú ý, các hợp đồng thuê đất được UBND các xã và Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre công chứng, chứng thực một cách vô tư dù việc làm đó vi phạm pháp luật.
Theo báo cáo của UBND tỉnh Bến Tre, 10 DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thuê đất của dân trái pháp luật đều đã được tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư. Trong đó có ba DN nuôi trồng thủy sản và bảy DN sản xuất, chế biến các sản phẩm từ dừa. Trong số này có đến tám DN của Trung Quốc, hai DN còn lại của Nga và Indonesia.
Ông Cao Văn Trọng, phó chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, cho biết tỉnh đã giao Sở Tài nguyên - môi trường chủ trì thành lập đoàn kiểm tra liên ngành rà soát toàn bộ các vụ người nước ngoài thuê đất trái phép trên địa bàn tỉnh. Sau khi kiểm tra xong mới bàn cách giải quyết.
Trước mắt, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp mời các DN nước ngoài và người dân đến giải thích, hủy hợp đồng mà sở đã công chứng. Trường hợp người dân đồng ý, tỉnh sẽ làm thủ tục thu hồi đất, bồi thường cho dân rồi cho DN nước ngoài thuê theo quy định của pháp luật. Còn nếu dân không đồng ý, tỉnh sẽ tìm đất khác cho DN thuê. “Trước mắt tỉnh sẽ hủy hợp đồng của một DN Trung Quốc và một DN Indonesia” - ông Trọng nói.
Theo UBND tỉnh Bến Tre, hầu hết hợp đồng cho thuê đất đều được phòng công chứng Sở Tư pháp và UBND các xã chứng thực, thừa nhận. Ngày 18-1, Trung tâm Xúc tiến đầu tư tỉnh Bến Tre có văn bản (kèm theo hợp đồng do Sở Tư pháp chứng thực) đề nghị cơ quan này có ý kiến xem việc chứng thực đó là đúng hay sai. Mãi đến ngày 6-3, tức gần hai tháng sau, giám đốc Sở Tư pháp Phan Tuấn Thanh mới ký văn bản trả lời, thừa nhận: “Việc công chứng, chứng thực các hợp đồng thuê đất giữa cá nhân, hộ gia đình với tổ chức, cá nhân nước ngoài là không đúng theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Theo Sở Tư pháp, Luật đất đai quy định hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê chỉ được phép cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người VN định cư ở nước ngoài đầu tư tại VN thuê quyền sử dụng đất (khoản 4, điều 113). Ngoài ra, luật cũng quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài có dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt thì được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần hoặc hằng năm để thực hiện dự án đầu tư (khoản 1, điều 73). Về cơ quan có thẩm quyền quyết định việc cho DN nước ngoài thuê đất, điều 37 Luật đất đai quy định đó là UBND tỉnh.
Từ việc thừa nhận làm sai, Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre cho biết đã họp nội bộ để rút kinh nghiệm và có văn bản chấn chỉnh việc công chứng, chứng thực, đồng thời sẽ có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan khắc phục hậu quả.
Nhiều người dân cho DN nước ngoài thuê đất nói họ không hiểu luật. Khi có người thuê đất với giá chấp nhận được thì họ cho thuê. Hợp đồng thuê đất được UBND xã hoặc Sở Tư pháp chứng thực nên họ càng tin tưởng, không nghĩ là vi phạm pháp luật.
Ông Phan Văn Năm (xã Tân Hội, huyện Mỏ Cày Nam) cho Công ty TNHH Trung Hàn (Trung Quốc) thuê gần 2ha đất. Ông Năm kể lúc đầu người đứng ra làm hợp đồng thuê đất là một phụ nữ tên Mai Thị Bích Hạnh. Hợp đồng được UBND xã chứng thực. Nhưng sau đó ông Zhou Zhunhan (người Trung Quốc) đưa thêm bản hợp đồng bằng tiếng Hoa bảo ông ký. “Lúc cầm hợp đồng này tôi cũng sợ lắm nên nhờ người dịch cho nghe. Thấy nội dung không có gì nên tôi mới ký” - ông Năm kể.
Tương tự, ông Nguyễn Trúc Sơn - giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư tỉnh Bến Tre - cho biết cơ quan này đã làm việc với các DN nước ngoài thuê đất trái phép. Các DN giải thích do họ không hiểu chứ không cố ý coi thường pháp luật VN. Hiện Công ty Simmy, Công ty Việt - Nga và các DN khác đều cam kết sẵn sàng hủy hợp đồng, trả lại đất cho người dân để thuê đất của Nhà nước. Nguyện vọng của các DN này là làm ăn lâu dài ở Bến Tre nên cần thuê đất nhiều hơn 10 năm mà họ thuê trực tiếp của dân.
3. Báo Lao động có bài Vụ công ty Cổ phần Bưu chính viễn thông Sài Gòn nợ 43 tỷ đồng tiền lương và Bảo hiểm xã hội: Chưa có phản hồi từ thi hành án. Bài báo phản ánh: Chiều 27.6, rất đông NLĐ từng làm việc tại Trung tâm điện thoại CDMA thuộc Cty CP bưu chính viễn thông Sài Gòn (SPT) đã tụ tập trước trụ sở chính của Cty (199 Điện Biên Phủ, Q.Bình Thạnh, TPHCM) để yêu cầu Cty trả sổ BHXH, tiền lương, trợ cấp thôi việc cho hơn 200 LĐ, nhưng tất cả đều thất vọng.
Như Báo Lao Động từng nhiều lần thông tin: Vào tháng 9.2001, Cty SPT đã mở thêm chi nhánh là Trung tâm điện thoại di động SFONE, nhưng thất bại, khiến hơn 200 NLĐ bị mất việc. Khi vụ việc đổ bể, NLĐ mới phát hiện Cty SPT nợ lương và nợ BHXH của NLĐ hơn 43 tỉ đồng, khiến hàng trăm NLĐ không được chốt sổ BHXH, không thể đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp...
Anh Lê Huy Luyện - nguyên là nhân viên Cty - cho biết, từ khi sự việc đổ bể, NLĐ yêu cầu Cty giải quyết quyền lợi, chế độ thì Cty liên tục hứa, rồi thất hứa. Anh đã khởi kiện Cty SPT ra tòa án Q.Bình Thạnh, tòa xử anh Luyện thắng kiện, buộc Cty SPT phải trả lương, trả sổ, các chế độ cho anh Luyện với số tiền hơn 90 triệu đồng. Sau đó, anh Luyện nhận được 4 thư mong thông cảm của SPT và cam kết thanh toán các chế độ, sổ BHXH từ năm 2011 đến tháng 4.2012 nhưng kết quả chỉ dừng lại ở mức độ gửi thư và đến nay thì không có thư từ gì nữa.
Sau đó, phía SPT bắt đầu trả lương “nhỏ giọt”, tính đến nay, anh Luyện và một số người đã nhận được 7 triệu đồng, trong khi Cty SPT nợ mỗi người gần 100 triệu đồng, người ít cũng vài chục triệu. “Một số người có quyết định của thi hành án nhưng phía SPT không thực hiện đúng tiến độ cũng như chưa có phản hồi cụ thể. NLĐ bị động không biết kêu ai nên chỉ biết bấu víu vào bên thi hành án. Thi hành án lại yêu cầu cung cấp số tài khoản hay tài sản của Cty SPT để cơ quan thi hành án làm việc nhưng chúng tôi làm sao biết được” - anh Luyện bức xúc.
Quá mệt mỏi vì chờ đợi, NLĐ đã tập trung về trụ sở Cty để yêu cầu Cty giải quyết. Chiều 27.6, làm việc với NLĐ, ông Lê Nhật Nguyên - Phó Tổng GĐ Cty SPT - lại hứa rằng, ngày 10.7 tới, lãnh đạo Cty sẽ họp bàn và đưa ra lộ trình trả lương, giải quyết quyền lợi cho NLĐ.
Trước đó, Cty SPT đã bị cơ quan BHXH TPHCM kiện ra tòa và đề nghị thi hành án buộc truy đóng số tiền nợ BHXH, BHYT của NLĐ hơn 12 tỉ đồng.
4. Báo Pháp luật và xã hội có bài Những điểm “mờ” trong việc đấu giá quyền sử dụng 400m2 đất.... Bài báo phản ánh: Một số khách hàng đã bị Cty CP đấu giá Bắc Trung Nam… “cho ăn quả đắng” khi Cty này nhiều lần báo hoãn chưa bán hồ sơ vì nhiều lý do.
Liên tục theo dõi thông tin để cố gắng mua được bộ hồ sơ đấu giá quyền sử dụng lô đất “vàng” tại trung tâm quận Hà Đông, Hà Nội. Nhưng một số khách hàng đã bị Cty CP đấu giá Bắc Trung Nam… “cho ăn quả đắng” khi Cty này nhiều lần báo hoãn chưa bán hồ sơ vì nhiều lý do. Vài ngày sau, Cty này bất ngờ tuyên bố đã bán hồ sơ và tổ chức đấu giá xong cách đây… cả tháng trời.
Theo phản ánh của nhiều người dân sinh sống tại quận Hà Đông và các địa bàn lân cận, ngày 24-3-2013, Cty CP đấu giá Bắc Trung Nam (Cty Bắc Trung Nam) có trụ sở tại B1, 277 Trung Kính, quận Cầu Giấy, Hà Nội đăng thông báo bán đấu giá tài sản trên báo HàNộimới. Tài sản bán đấu giá là quyền sử dụng 397m2 đất ở thuộc khu tập thể hưu trí Lê Quý Đôn, phường Hà Cầu, quận Hà Đông, Hà Nội, với giá khởi điểm là 9,136 tỷ đồng. Thời gian tham khảo và bán hồ sơ đấu giá từ ngày 26-4 đến hết ngày 28-4-2013. Thời gian dự kiến đấu giá vào lúc 9g30 ngày 4-5-2013.
Đọc được thông báo trên, nhiều người dân trên địa bàn quận Hà Đông háo hức chờ đón được tham dự một phiên đấu giá công khai, minh bạch. Được biết, lô đất trên có vị trí đắc địa, nằm cạnh chợ Hà Đông. Chính vì vậy mà nhiều người mơ ước được quyền sử dụng (QSD) vài chục m2 đất tại khu vực này. Ngay từ đầu giờ sáng 26-4-2013, đã có hàng chục khách hàng đợi trước cổng Cty Cổ phần đấu giá Bắc Trung Nam để chờ mua hồ sơ đấu giá. Tuy nhiên, đến giờ bán hồ sơ thì đại diện Cty nói với khách hàng, Cty hoãn bán hồ sơ với lý do, trên lô đất này còn một gia đình chưa chuyển đi(?). Và đề nghị các khách hàng có nhu cầu mua hồ sơ để lại tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại, khi nào bán hồ sơ Cty sẽ thông báo sau.
Nhiều khách hàng đã từng tham gia đấu giá do Cty Bắc Trung Nam tổ chức cho biết, không chỉ mập mờ trong vụ đấu giá QSD lô đất 397m2 nói trên, mà Cty này còn tổ chức rất nhiều vụ đấu giá tài sản khác cũng mập mờ tương tự.
Có hay không chuyện bất thường, mập mờ trong việc đấu giá QSD 397 m2 đất “vàng” tại quận Hà Đông, Hà Nội?
5. Báo Người Lao động có bài “Đè” phạt người đẻ hơn 2 con. Bài báo phản ánh: Muốn làm khai sinh cho con thứ ba, thứ tư của mình, người dân phải nộp phạt 1-1,5 triệu đồng vì “vi phạm quy định sinh đẻ có kế hoạch”! Chuyện xử phạt sai quy định này xảy ra tại xã Tân Minh, huyện Thường Tín, TP Hà Nội
Xã Tân Minh cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km. Đa phần người dân ở đây làm nông nên việc am hiểu các quy định pháp luật của họ cũng bị hạn chế.
Dù đứa trẻ được sinh ra ở đâu, khi bố mẹ chúng đến Trạm Y tế xã Tân Minh xin giấy chứng sinh để làm giấy khai sinh đều bị nhân viên dò xem có thuộc diện “vượt rào” hay không. Nếu đẻ con thứ ba, người dân phải nộp 1 triệu đồng, đẻ con thứ tư là 1,5 triệu đồng thì mới được cấp giấy chứng sinh.
“Cơ quan thu tiền không đưa cho người nộp phạt bất kỳ giấy tờ nào chứng minh là đã thu tiền. Họ chỉ bảo rằng những người sinh con thứ ba, thứ tư là vi phạm quy định về kế hoạch hóa gia đình” - chị N.Y, người vừa bị phạt 1,5 triệu đồng vì sinh con thứ tư, phản ánh.
Thậm chí, cách đây mấy năm, ông Lê Ngọc Hân, Trạm trưởng Trạm Y tế xã Tân Minh, còn đuổi việc nhân viên Phạm Thị Anh vì lỡ… mang thai đứa con thứ ba. Bà Phạm Thị Anh cho biết từ trước tới nay chưa có quy định nào về việc phạt tiền đối với những hộ gia đình đẻ 3-4 con. Việc phạt này chỉ có từ khi ông Hân giữ chức trạm trưởng trạm y tế xã.
Ông Đinh Bá Vinh, Chủ tịch UBND xã Tân Minh, khẳng định xã và huyện không có chủ trương phạt tiền đối với những người sinh con thứ ba, thứ tư. Việc đưa ra mức phạt, thu - chi số tiền đó như thế nào là hoàn toàn do cán bộ, nhân viên trạm y tế xã quyết định. “Sau khi nhận được phản ánh của người dân, chúng tôi đã làm việc với trạm y tế và đúng là họ đã thu tiền phạt này từ năm 2010 đến nay. Theo báo cáo của trạm y tế xã, chúng tôi đã yêu cầu họ trả lại trên 80 triệu đồng cho các gia đình đã nộp phạt” - ông Vinh khẳng định.
Tiếp nhận phản ánh của phóng viên Báo Người Lao Động, ông Uông Đức Ngọc, Chủ tịch UBND huyện Thường Tín, cho biết đã yêu cầu lãnh đạo xã Tân Minh giải quyết vụ việc và xử lý nghiêm cán bộ, nhân viên vi phạm. Ông Ngọc khẳng định từ trước tới nay, huyện không có chủ trương xử phạt đối với người sinh con thứ ba, thứ tư.