Điểm tin báo chí sáng ngày 04 tháng 6 năm 2013

04/06/2013
Trong các ngày 03/6 và đầu giờ sáng ngày 04/6/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Trang vtv.vn có bài Đa số đại biểu nhất trí giữ nguyên tên nước. Bài báo đưa tin: Tại phiên thảo luận hôm nay 3/6, nhiều đại biểu đã nhất trí giữ nguyên tên nước và hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Đa số các đại biểu đưa ra quan điểm nhất trí giữ nguyên tên nước là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vì tên này thể hiện mục tiêu và sứ mệnh lịch sử của nhân dân Việt Nam phấn đấu xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, tên nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được các nước trên thế giới thừa nhận, ngoài ra nếu đổi tên nước sẽ ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của nhân dân, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân với Đảng. Việc đặt tên nước như 37 năm qua là sự lựa chọn của thời khắc lịch sử sau khi kết thúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. 

Liên quan đến việc góp ý dự thảo Hiến pháp sửa đổi, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Quốc hội họp toàn thể góp ý Hiến pháp: Chưa ngã ngũ về chính quyền địa phương. Bài báo đưa tin: Phiên họp Quốc hội (QH) toàn thể thảo luận ngày 3-6, 42 đại biểu (ĐB) QH đã nói lên quan điểm của mình về việc sửa đổi HP cũng như tiếp thu giải trình ý kiến nhân dân về HP. Tập hợp các ý kiến cho thấy dường như hầu hết chấp nhận mức độ sửa đổi như dự thảo, chẳng hạn như với vấn đề tên nước, vai trò lãnh đạo của Đảng... Tuy nhiên, riêng về chương chính quyền địa phương (CQĐP) lại có những luồng ý kiến khác nhau, chưa ngã ngũ.

Với cơ cấu cán bộ công tác ở địa phương chiếm tỉ lệ khá lớn trong QH, vấn đề tổ chức CQĐP thế nào được khá nhiều ĐB đề cập. Các phân tích xoay quanh hai phương án thể hiện trong dự thảo: (1) quy định rất ngắn gọn về đơn vị hành chính, còn mô hình CQĐP để thảo luận tiếp khi xây dựng luật; (2) giữ nguyên quy định khá chi tiết ở HP 1992.

Trong số những ĐB ủng hộ giữ nguyên mô hình CQĐP, ông Huỳnh Nghĩa - đến từ Đà Nẵng, một trong 10 tỉnh, thành đang thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường lập luận khá chi tiết. “Việc thí điểm đến nay đã gần năm năm mà chưa tổng kết. Điều đó cho thấy tính phức tạp, nhạy cảm” - ông nói. Từ trải nghiệm của mình, ông Nghĩa cho rằng giao cho HĐND cấp tỉnh giám sát xuống cấp dưới là phi thực tế. Còn nói cơ quan dân cử cấp huyện hình thức là chưa thực sự chính xác, mang nặng định kiến. “Hình thức, cầm chừng, thiếu hiệu lực, hiệu quả là do thiếu cơ chế hoạt động, chưa hội đủ các điều kiện cần để phát huy vai trò cơ quan dân cử. Không loại trừ do cơ cấu nhân sự Thường trực HĐND không đủ mạnh, không tương xứng với vai trò, chức năng, từ đó dẫn tới tâm lý ngại va chạm, không dám thể hiện quan điểm của mình trước cái đúng, cái sai” - ông phân tích.

Ngược lại, một số ĐBQH cho rằng HP không nên quy định quá sâu để mở đường cho quá trình tìm tòi, đổi mới mô hình tổ chức CQĐP. Ông Trần Du Lịch (TP.HCM) phát biểu khá sâu theo hướng này: “Tôi kỳ vọng sửa HP lần này sẽ khắc phục được bất cập lớn nhất hiện nay, là tổ chức nền hành chính thiếu hiệu quả”. Ông nói tiếp: “QH khóa XIII đang đứng trước trách nhiệm lịch sử như một QH lập hiến. Do đó, tất cả vấn đề có ý kiến khác nhau cần thảo luận đến cùng, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Không nên vì vấn đề gì khó mà không làm”. Cho rằng rào cản vướng mắc nhất trong cải cách hành chính hiện nay là tổ chức bộ máy, nhất là CQĐP chưa được đổi mới đáng kể, vì vậy theo ông Lịch, HP cần đột phá, theo cách quy định ngắn gọn, không chi tiết nhưng phải phản ánh đủ bốn nguyên tắc tổ chức, hoạt động của CQĐP.

Cụ thể, thứ nhất phải xác định là có nên đồng nhất đơn vị hành chính với chính quyền không và quyết định mấy cấp chính quyền? Dẫn kinh nghiệm của Trung Quốc, ông Lịch cho rằng Việt Nam nên theo mô hình chính quyền hai cấp, tỉnh và cơ sở.

Nguyên tắc thứ hai cần hiến định là địa vị pháp lý của CQĐP biểu hiện ở hai chức năng hành pháp chính phủ trên địa bàn - tức thực thi pháp luật và chức năng đại diện lợi ích của cộng đồng nhân dân địa phương. Hai chức năng đó hòa quyện với nhau.

Thứ ba, cần xác định quyền lực nhà nước chỉ được phân công theo ba nhánh hành pháp, lập pháp, tư pháp. CQĐP với hai chức năng chính nêu trên thì HĐND trong đó không nên coi là cơ quan quyền lực nhà nước. Thay vào đó, cần coi thiết chế dân cử là cơ chế để thực hiện quyền tự quản của địa phương trong mối quan hệ với chính quyền trung ương.

Cuối cùng, HP cần xác định nền hành chính quốc gia là thống nhất nhưng không đồng nghĩa đồng nhất về mặt tổ chức. “Do đó cho phép tổ chức mô hình chính quyền khác nhau tùy thuộc vào đặc thù của từng địa phương, là đô thị hay nông thôn, đất liền hay hải đảo và mục tiêu định hướng phát triển” - ông Lịch góp ý.

Liên quan chặt chẽ với các quy định về CQĐP, ĐB Trần Du Lịch cho rằng cần đổi mới cơ chế quyết định ngân sách. Vấn đề này, Dự thảo HP đưa ra hai phương án: (1) QH quyết toán ngân sách Nhà nước (tức bao gồm cả ngân sách địa phương) và (2) QH chỉ quyết toán ngân sách trung ương.

“Đây là vấn đề quan trọng” - ông Lịch nhận xét. “Tôi cho rằng cần làm rõ phần nào là của địa phương, phần nào của quốc gia hỗ trợ thêm theo cách phân bổ về địa phương. Đã là ngân sách quốc gia thì QH quyết toán, giám sát. Còn ngân sách địa phương thì hãy để HĐND quyết định. Địa phương nào nguồn thu càng lớn thì tự chủ phải càng lớn và ngược lại nguồn thu ít, còn dựa nhiều vào hỗ trợ của trung ương thì tự chủ ít. Có thế mới tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tự quản cho địa phương” - ông kiến nghị.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang Vtv.vn có bài ĐBQH nhất trí phương án bầu hòa giải viên cơ sở. Bài báo đưa tin: Thảo luận về dự thảo Luật Hòa giải cơ sở, nhiều đại biểu cho rằng, việc bầu hòa giải viên sẽ phù hợp với tính chất tự nguyện, tự quyết và tự quản của nhân dân đối với hoạt động hòa giải ở cộng đồng.

So với dự thảo luật đã trình Quốc hội tại kỳ họp trước đó, dự thảo Luật Hòa giải được thảo luận sáng ngày 31/5 đã được chỉnh lý, tiếp thu theo hướng tăng cường xã hội hóa và chú trọng yếu tố tự nguyện, tự quản, tự quyết của nhân dân trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Nhiều đại biểu cho rằng, quy định về phạm vi hòa giải mà dự thảo luật đưa ra sẽ khó bao quát và liệt kê được hết các trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong thực tế, trong một số trường hợp có thể lợi dụng hoạt động hòa giải để trốn tránh trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm hành chính; đồng thời đề xuất dự thảo nên quy định nội dung này theo hướng loại trừ. Theo đó, chỉ quy định những vụ việc không được hòa giải ở cơ sở, ví dụ tranh chấp đất đai ở cấp xã thì không nên áp dụng theo trình tự hòa giải ở cơ sở.

Liên quan đến quy định bầu hay lựa chọn hòa giải viên, dự thảo đề xuất 2 phương án lựa chọn.  Phương án 1 là bầu hòa giải viên, phương án 2 là lựa chọn hòa giải viên.

Trong phiên thảo luận, vẫn còn 2 loại ý kiến khác nhau về vấn đề này. Loại ý kiến thứ nhất, tán thành với phương án bầu hòa giải viên nhằm phát huy dân chủ ở cơ sở và người dân được trực tiếp lựa chọn người có uy tín làm hòa giải viên ở cơ sở, cộng đồng. Việc bầu hòa giải viên thể hiện quan điểm không hành chính hóa và tăng cường xã hội hóa đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở phù hợp với tính chất tự nguyện, tự quyết và tự quản của nhân dân đối với hoạt động này. Loại ý kiến thứ hai, tán thành phương án lựa chọn, giới thiệu hòa giải viên để bảo đảm tính chất của hòa giải ở cơ sở, tránh hành chính hóa, phát huy được vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và đơn giản thủ tục.

2. Báo Pháp luật & Xã hội có bài 7 giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch. Bài báo phản ánh: Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức là một trong những mục tiêu quan trọng trong công tác cải cách hành chính nói chung và trong lĩnh vực hộ tịch nói riêng của TP Hà Nội. Ý thức được điều đó, nhiều năm qua, ngành Tư pháp TP Hà Nội đã tích cực tham mưu giúp Thành ủy, UBND TP hoàn thiện thể chế liên quan đến đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch; thường xuyên quan tâm thực hiện các giải pháp nhằm ngày càng nâng cao chất lượng, trách nhiệm của đội ngũ này, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà cán bộ Tư pháp hộ tịch được giao phụ trách tới 12 đầu việc, nhưng theo biên chế chỉ có 1 cán bộ.

Nhờ vậy, thời gian qua, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn TP Hà Nội đã đáp ứng tốt nhu cầu đăng ký các sự kiện hộ tịch của cá nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực kể trên, so với yêu cầu nhiệm vụ thì lực lượng cán bộ Tư pháp hộ tịch cấp xã, phường, thị trấn trên địa bàn TP Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch trên địa bàn TP Hà Nội, trong thời gian tới cần phải thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, để đảm bảo ổn định và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch thì việc Luật Hộ tịch quy định chức danh Hộ tịch viên là cần thiết và phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở tách riêng công tác hộ tịch khỏi công tác Tư pháp khác, theo hướng chuyên nghiệp hóa chức danh Hộ tịch viên để bảo đảm nâng cao chất lượng và trách nhiệm đăng ký hộ tịch, đáp ứng được mô hình đăng ký hộ tịch ở cấp xã. Chức danh Hộ tịch viên cần được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ hộ tịch như các chức danh hộ tịch khác như Công chứng viên, Đấu giá viên, Trợ giúp viên pháp lý…

Thứ hai, tiếp tục củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức Tư pháp hộ tịch các cấp, đủ về số lượng và tiêu chuẩn nghiệp vụ tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, cán bộ; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, tư pháp hộ tịch; tăng cường cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức Tư pháp hộ tịch xã, phường, thị trấn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng nghiệp vụ cán bộ Tư pháp hộ tịch. Tăng cường giáo dục, rèn luyện chính trị, tư tưởng, thái độ phục vụ nhân dân, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Công chức Tư pháp hộ tịch và những người có thẩm quyền giải quyết công việc của dân phải là những người gương mẫu, tự giác trong chấp hành pháp luật, phải thực sự là những người công tâm, chuẩn xác, làm việc khoa học, mang tính chuyên nghiệp cao; Đối với những vùng điều kiện đi lại khó khăn hoặc vì lý do khách quan khác, công chức Tư pháp hộ tịch phải tìm đến dân chứ không phải ngồi chờ dân đến. Phải biết lắng nghe ý kiến góp ý, trao đổi của dân. Phải tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi thực hiện quyền của mình nói chung và trong lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng, phải thực sự là “công bộc” của dân. Có như vậy mới thực sự làm cho dân tin, thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý hộ tịch, hiệu quả quản lý Nhà nước về hộ tịch mới được nâng cao.    

Thứ tư, chú trọng công tác tuyển dụng cán bộ, từng bước bố trí, sắp xếp để tiến tới 100% công chức Tư pháp hộ tịch đạt chuẩn, trong đó 80-90 % cán bộ, công chức tư pháp hộ tịch ở các xã, phường, thị trấn có trình độ ĐH. Nội dung thi tuyển ngoài hiểu biết pháp luật nói chung, cần coi trọng kiểm tra, sát hạch về kỹ năng xử lý tình huống. Mặc dù hướng đến tin học hóa quản lý hộ tịch nhưng cũng cần xem xét chữ viết đẹp, rõ ràng cũng là một trong những tiêu chuẩn của người dự tuyển. Việc tuyển dụng phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, khách quan, công khai, khuyến khích nhưng cần đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.

Thứ năm, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, phấn đấu 100% công chức Tư pháp hộ tịch xã, phường thị trấn có máy tính nối mạng để thực hiện thống nhất quản lý chuyên ngành bằng công nghệ thông tin.

Thứ sáu, để kịp thời động viên, khuyến khích cán bộ Tư pháp hộ tịch ở cơ sở phát huy được khả năng và trí tuệ phục vụ công việc được giao, Nhà nước cần có những chính sách đãi ngộ cho phù hợp, bảo đảm quyền lợi cho cán bộ làm công tác Tư pháp hộ tịch.

Thứ bảy, hàng năm cấp TP cần tiến hành đánh giá, phân loại cán bộ Tư pháp hộ tịch; kiên quyết đưa ra khỏi vị trí công tác những cán bộ, công chức Tư pháp hộ tịch có năng lực chuyên môn yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm, phục vụ nhân dân kém, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Trần ai “con kiến” kiện “củ khoai” - Bài 3: Nước mắt người xe ôm. Bài báo phản ánh: Năm 2001, khi phong trào đầu tư resort ở Mũi Né (Phan Thiết) nở rộ thì phần đất gần 10.000 m2 của gia đình ông Trần Khánh Dân đã bị UBND tỉnh Bình Thuận ra quyết định thu hồi cho hai doanh nghiệp thuê làm khu du lịch. Điều trớ trêu là tên của ông Dân không hề có trong danh sách bị thu hồi đất. Thấy quá vô lý, ông Dân khiếu nại. Bốn năm sau, tháng 4-2005, chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận lúc đó mới ký quyết định bổ sung tên ông Dân vào danh sách thu hồi đất để “chữa cháy”. Cuối năm 2005, UBND tỉnh Bình Thuận tiếp tục ra hai quyết định bồi thường cho gia đình ông Dân vài trăm triệu đồng cho cả gần 10.000 m2 đất lẫn hàng trăm cây ăn trái, cây lấy gỗ, ao cá, giếng nước, nhà cửa… Không đồng tình với giá bồi thường rẻ mạt ấy, ông Dân tiếp tục khiếu nại. Sự việc kéo dài đến một năm sau thì UBND tỉnh Bình Thuận ra quyết định cưỡng chế một phần diện tích đất của gia đình ông Dân để giao cho doanh nghiệp làm resort.

Cuối năm 2006, phần diện tích còn lại của gia đình ông Dân tiếp tục bị cưỡng chế. Khi mới ủi ngã gần 20 cây điều của gia đình ông Dân, đoàn cưỡng chế lại “cưỡng chế nhầm” phần đất hơn 10.000 m2 của hai hộ dân bên cạnh đất ông Dân. Khi bốn phụ nữ chủ đất bị “cưỡng chế nhầm” phản ứng, lập tức trưởng đoàn cưỡng chế yêu cầu bắt giữ đưa về trụ sở Công an phường Mũi Né. Lúc này, khi xem lại các quyết định và vị trí đất, đoàn cưỡng chế mới biết đã bị nhầm liền chạy vội đến trụ sở công an phường lập biên bản đề nghị bốn phụ nữ bị giữ ký tên vào với lý do “đất đang cưỡng chế mà đến… làm ồn”! Tuy nhiên, cả bốn phụ nữ này đều không ký. Đến trưa cùng ngày, thấy chẳng ai đến giải quyết nên họ rủ nhau bỏ về. Nhờ vụ “cưỡng chế nhầm” hi hữu này mà phần diện tích đất còn lại của ông Dân đã không bị tiếp tục cưỡng chế bởi lực lượng công an rút hết về, không tham gia nữa.

Uất ức, ông Dân khởi kiện UBND tỉnh Bình Thuận ra TAND tỉnh này. Xử sơ thẩm, TAND tỉnh đã hủy một phần trong hai quyết định bồi thường đất của chủ tịch UBND tỉnh. Tuy nhiên, sau khi ông Dân kháng cáo, tháng 10-2007, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã hủy cả hai quyết định bồi thường. Theo Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM, năm 2005, UBND tỉnh Bình Thuận mới ra quyết định bổ sung tên ông Dân vào danh sách thu hồi đất là lỗi thuộc về cơ quan này. Về mặt pháp lý, cần xác định năm 2005 ông Dân mới bị thu hồi đất chứ không phải năm 2001. Do đó, UBND tỉnh Bình Thuận phải áp dụng việc bồi thường cho ông Dân theo đúng quy định của Luật Đất đai 2003.

Thua kiện, UBND tỉnh Bình Thuận có công văn đề nghị TAND Tối cao xem xét kháng nghị vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, TAND Tối cao đã trả lời rằng bản án phúc thẩm đúng pháp luật, không có cơ sở để kháng nghị.

Thắng kiện nhưng khi ông Dân rào lại mảnh đất của mình thì bất ngờ bị UBND TP Phan Thiết ra quyết định xử phạt hành chính 16 triệu đồng. Thấy quá vô lý, ông Dân khiếu nại quyết liệt thì UBND TP Phan Thiết mới chịu thu hồi quyết định này. Chưa hết, UBND tỉnh Bình Thuận còn lập ra một tổ công tác để kiểm tra, rà soát lại hồ sơ thủ tục, xác định tính pháp lý… trong vụ thu hồi đất của ông Dân. Trong khi đó, một phần diện tích đất của ông Dân đã được doanh nghiệp xây resort, một phần diện tích đất còn lại bị san ủi, bỏ hoang hóa nhiều năm qua.

Bản án đã có hiệu lực pháp luật không được thi hành. Đã không được trả lại đất, ông Dân cũng không được bồi thường theo quy định của Luật Đất đai 2003 như bản án phúc thẩm tuyên. Không còn chịu đựng nổi nữa, năm 2009, ông Dân làm đơn yêu cầu xử lý hình sự chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận về hành vi cố tình không chấp hành án. Ông Dân cho biết lá đơn này sau đó đã được VKSND tỉnh chuyển cho cơ quan điều tra rồi “mất hút” luôn.

Đều đặn mỗi tháng một lần ông Dân làm đơn gửi tới các cơ quan chức năng để nhờ can thiệp, yêu cầu UBND tỉnh Bình Thuận thi hành bản án. Nhưng suốt sáu năm qua, cái mà ông nhận được chỉ là những thông báo chuyển đơn.

“Tôi đọc báo thấy nói năm 2012 Thủ tướng Chính phủ từng ra Chỉ thị 17 chỉ đạo UBND cấp tỉnh phải kiểm tra, đôn đốc các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan, tổ chức khác trên địa bàn nghiêm túc thi hành án hành chính, không để tồn đọng các bản án, quyết định của tòa án về vụ án hành chính đã có hiệu lực pháp luật. Ở trường hợp của tôi, một khi chính UBND tỉnh Bình Thuận không chịu thi hành án thì ai sẽ kiểm tra, đôn đốc họ đây?” - người đàn ông từng là nông dân ấy vò vò mái tóc hoa râm rối bù của mình rồi ngồi lắc đầu cười chua chát.

4. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Thủ tục hành chính: Khoảng trống kiểm tra, kiểm soát. Bài báo phản ánh: Theo báo cáo của UBND TPHCM, từ đầu năm đến nay, chỉ giảm 5 thủ tục hành chính (TTHC) và không phát sinh thêm TTHC nào cho cả 3 cấp cơ quan hành chính Nhà nước là UBND TP, UBND quận huyện và UBND phường - xã - thị trấn. Tuy nhiên, thực tế số TTHC phát sinh tăng ở các cấp hành chính hiện nay là không thể kiểm soát.

Theo quy định, khi làm TTHC, người nộp hồ sơ được lựa chọn một trong hai hình thức: Nộp bản sao giấy tờ đã có chứng thực hoặc nộp bản photocopy và xuất trình bản chính để cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra, đối chiếu. Song, theo phản ánh của người dân, bất cứ giấy tờ gì trong bộ hồ sơ từ xin việc làm, xin học cho con đến xin cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận nhà đất, hộ tịch… cơ quan hành chính phường - xã - thị trấn, quận huyện đều yêu cầu người dân phải chứng thực sao y mỗi loại giấy tờ 4 bản, trong đó có 1 bản lưu.

Theo ông Nguyễn Phương Nam, Chủ tịch UBND phường 12 (quận 3), lệ phí chứng thực sao y hiện nay quy định 2.000 đồng/trang (không kể lớn nhỏ). Đối với bản lưu, theo quy định 3 tháng là phải hủy vì không còn giá trị. Như vậy thật lãng phí không chỉ cho người dân mà cả cơ quan Nhà nước.

Trong lĩnh vực xây dựng, ông Nguyễn Tương Minh, Phó Chủ tịch UBND quận 12 cho biết: Quy định cấp phép xây dựng mới hiện nay làm phát sinh thêm 2 TTHC. Cụ thể, công trình có diện tích hơn 200m², cao 3 tầng trở lên phải có bản thiết kế kết cấu; những khu vực đã có quy hoạch chi tiết 1/500 trước kia chỉ cần báo cho chủ đầu tư biết để thi công, nay phải xin giấy phép xây dựng. Trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận nhà - đất, lãnh đạo một số quận huyện cho biết, từ đầu năm đến nay, Chính phủ và các bộ ngành trung ương đã ban hành gần 10 nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện theo thay đổi của một số luật.

Điều này đã làm tăng thêm từ 3 đến 5 TTHC. Các lĩnh vực khác như tư pháp, hộ tịch, đầu tư, mặc dù được các cơ quan hành chính báo cáo đã giảm cả về TTHC lần thời gian giải quyết, song thực tế nhiều nơi đã tự ý đòi thêm nhiều thủ tục ngoài luồng, người dân phải đi lại bổ sung nhiều lần.

Theo UBND TPHCM, trong quý 1-2013 chỉ tiếp nhận 3 phản ánh của người dân qua điện thoại liên quan đến kết quả thực hiện TTHC tại Sở Tư pháp, UBND quận Bình Thạnh và Phú Nhuận. Kết quả trên không xác thực với tình hình phản ánh, kiến nghị của người dân quy định về TTHC.

Theo ông Lê Hoài Trung, Phó Giám đốc Sở Nội vụ TP, từ cuối năm 2012 đến nay, đang có một khoảng trống về kiểm soát TTHC. Thực tế, Phòng Kiểm soát TTHC thuộc Văn phòng UBND TP nhiều tháng qua thực hiện chưa đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định vì nhân sự, tổ chức ở bộ phận này thời gian qua chưa ổn định. Ở cấp quận huyện cũng vậy, việc kiểm soát TTHC thời gian qua thực hiện chưa sát sao, chưa kịp thời tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của dân về TTHC; việc giám sát, kiểm tra, phát hiện và kiến nghị sửa đổi những bất hợp lý của các TTHC gây phiền hà dân còn yếu…

Nghị định 48/2013/NĐ-CP ngày 14-5-2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát TTHC có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7 có nhiều quy định mới về thực thi kiểm soát TTHC. Trong đó có việc chuyển Phòng Kiểm soát TTHC thuộc Văn phòng UBND TP về Sở Tư pháp TP quản lý. Như vậy, sẽ có một khoảng trống về thời gian để bộ phận này củng cố bộ máy, tổ chức, nhân sự đi vào hoạt động theo đúng chức năng tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tư pháp tổ chức thực hiện công tác kiểm soát TTHC.

5. Báo Người lao động có bài Quá nhiều quy định “trên trời”. Bài báo phản ánh: Báo Người Lao động đã trao đổi với bà Lê Thị Nga, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, về những quy định khó đi vào cuộc sống

* Phóng viên: Nhiều đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và người dân cho rằng các quy định pháp luật hiện hành dường như đẩy khó cho người dân và dễ cho cơ quan quản lý, thưa bà?

 - Phải nói rằng hiện tượng này tuy không phổ biến nhưng có. Cục Kiểm tra văn bản của Bộ Tư pháp đã chỉ ra đến mấy trăm văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ và các bộ, ngành có những quy định không bảo đảm chất lượng, cá biệt còn trái luật.

Giữa hai kỳ họp Quốc hội vừa qua, báo chí đề cập nhiều đến vấn đề xây dựng văn bản, thu hút đông đảo cử tri thảo luận. Trong đó, nhiều luật, nghị định, thông tư đang trong quá trình soạn thảo có một số quy định trái luật, bất hợp lý, thiếu khả thi.

* Theo bà, đâu là nguyên nhân của tình trạng xây dựng luật xa rời cuộc sống?

 - Theo tôi, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã khá hoàn thiện. Nếu thực hiện đúng luật này, chất lượng văn bản sẽ rất tốt. Luật đã quy định rõ trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ chặt chẽ của các chủ thể trong tất cả các khâu của quá trình xây dựng văn bản quy phạm. Một yêu cầu tối quan trọng và xuyên suốt của các quá trình này là phải bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất của hệ thống pháp luật và phải khả thi.

Tuy nhiên, vẫn còn những quy định chồng chéo, mâu thuẫn với luật khác, không khả thi, khó đi vào cuộc sống, quy định khung còn nhiều, thiếu tính dự báo nên phải nhanh chóng sửa đổi. Những hạn chế này trước hết là do các chủ thể của từng khâu đã không chấp hành đầy đủ luật.

 * Trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có quy định phải lấy ý kiến người dân nhưng xem ra việc làm này còn hình thức?

- Việc hình thức trong lấy ý kiến người dân là có.

* Còn nhiều quy định không khả thi, ngoài trách nhiệm của các cơ quan thuộc Chính phủ còn có phần của QH, thưa bà?

- Đương nhiên là có trách nhiệm vì QH là cơ quan xây dựng luật, là khâu cuối cùng. QH cũng phải tự đánh giá đối với những luật, pháp lệnh chất lượng chưa tốt, phải sửa đổi thì lỗi là ở khâu nào, ai chịu trách nhiệm?

Nhiều lúc cơ quan thẩm tra của QH có ý kiến phản đối nhưng ĐB vẫn biểu quyết thông qua. Trong khi đó, cơ chế quy trách nhiệm đối với 500 ĐBQH đến nay chưa được đặt ra. Ở một số nước, cử tri có quyền biết đối với từng vấn đề, ĐB do mình bầu ra đã bỏ phiếu như thế nào? Có theo nguyện vọng của họ hay không? Ở ta thì chưa có cơ chế này.

* Vậy theo bà, để hạn chế những quy định không khả thi, thời gian tới cần phải làm gì?

 - Phải rà soát lại quy trình rồi xử lý, chấn chỉnh từng khâu, chủ yếu là khâu tổ chức thực hiện. Đối với luật thì hiện nay, quy định thẩm quyền thẩm định thông tư của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định là chưa hợp lý, không bảo đảm khách quan. Theo luật này, thông tư do bộ soạn thảo nhưng việc thẩm định cũng do bộ phận pháp chế của bộ đó thực hiện. Vì thế, ít khi có quan điểm trái chiều vì họ có cùng điểm chung là tạo thuận lợi cho bộ của mình, đặc biệt nếu quan điểm soạn thảo lại là ý tưởng của chính bộ trưởng.

Theo tôi, để bảo đảm khách quan và nâng cao chất lượng của văn bản thì cơ quan thẩm định, thẩm tra phải độc lập, đứng ngoài sự chi phối, ảnh hưởng của cơ quan soạn thảo.

* Như vậy, cần có một cơ quan độc lập thẩm định và kiểm tra việc này. Khi đó, Bộ Tư pháp hay Văn phòng Chính phủ sẽ quá tải bởi dày đặc thông tư như hiện nay?

 - Thẩm định là việc làm trước khi ban hành, kiểm tra là việc làm sau khi ban hành. Với cả 2 việc này, Chính phủ cần tổ chức tốt hơn để khắc phục những hạn chế như vừa qua. Giao cho cơ quan nào là thẩm quyền của Chính phủ. Theo tôi, Chính phủ có thể giao việc thẩm định cho Bộ Tư pháp, trừ những văn bản do bộ này soạn thảo, nếu vướng luật thì đề xuất QH sửa.

III- THÔNG TIN KHÁC

Trang vtv.vn đưa tin: Sáng 3/6, Lễ tang đồng chí Hồ Đức Việt, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã tổ chức trọng thể tại Nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội theo nghi thức lễ tang cấp Nhà nước. Cùng ngày, Lễ an táng đồng chí Hồ Đức Việt được tổ chức tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. 



File đính kèm