I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:
- Báo VOV Online có bài Nhiều góp ý tâm huyết sửa đổi Hiến pháp. Bài báo phản ánh: Sau 2 tháng triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, hầu hết các cơ quan, tổ chức, địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo, ban hành kế hoạch và các văn bản triển khai việc lấy ý kiến nhân dân, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm để thảo luận, góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Nhiều nơi có cách làm mới, sáng tạo, có hiệu quả…
Theo báo cáo của các địa phương, nhân dân tin tưởng, phấn khởi, cơ bản đồng tình với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp công bố; đồng thời, có nhiều ý kiến góp ý tâm huyết.
Đa số ý kiến đều cho rằng, Dự thảo đã tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có tính bản chất của chế độ ta về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Những vấn đề về vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền con người, quyền công dân, các vấn đề về đất đai… được nhiều người quan tâm. Đặc biệt, hầu hết ý kiến đều khẳng định, dự thảo Hiến pháp tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội quân tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Việc quy định rõ một điều trong Hiến pháp về một Đảng chính trị là đặc trưng riêng có của Việt Nam, đó là sự cần thiết và đương nhiên.
Theo Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thời gian tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội quyết định bắt đầu từ ngày 02/01/2013 đến hết ngày 31/03/2013.
Kể từ sau ngày 31/03/2013 cho đến 30/09/2013 trước khi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được trình Quốc hội thông qua, nhân dân vẫn tiếp tục đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các cơ quan, tổ chức, địa phương có trách nhiệm tiếp nhận, tập hợp đầy đủ các ý kiến góp ý của nhân dân và gửi về Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Các ý kiến góp ý của nhân dân sẽ được nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, quyết định.
2. Báo Nhà báo và Công luận có bài Huyện Phú Quốc, Kiên Giang: Chi cục Thi hành án hủy hoại tài sản công dân. Bài báo phản ánh: Suốt 2 năm qua, nhân dân ấp Rạch hàm, xã Hàm Ninh, huyện Phú Quốc đã xôn xao chuyện Chi cục Thi hành án (THA) huyện Phú Quốc có dấu hiệu cố tình làm trái các quy định pháp luật về THA, hủy hoại tài sản công dân.
Năm 1975, cụ Lê Văn Thiều và cụ Đặng Thị Bông là thân phụ của các ông bà: Lê Văn Thắng, Lê Văn Chiến, Lê Thị Ngọc Anh, khai khẩn thửa đất có diện tích 28,274m2 tại ấp Rạch Hàm, xã Hàm Ninh, huyện Phú Quốc. Năm 1988, hai cụ có cho ông bà Lữ Thanh Hùng, Phan Thị Muôn ở nhờ trên một phần thửa đất nêu trên. Đến năm 1994 cụ Thiều, cụ Bông được nhà nước cấp Giấy Chứng nhận Quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Cùng năm 1994, ông Hùng, bà Muôn cũng kê khai đăng ký đất và được Nhà nước cấp GCNQSDĐ đất 13,900m2. Các con cụ Thiều, cụ Bông là các ông Thắng, ông Chiến và bà Ngọc Anh cho rằng 9104,9m2 đất trong đó là đất của cha mẹ họ để lại. Vậy nên, ông Thắng đã đại diện anh em đồng khởi kiện đến TAND huyện Phú Quốc đòi lại diện tích đất nêu trên.
Tại bản án số 51/2009/DSST, ngày 25/09/2009, TAND huyện Phú Quốc quyết định: Công nhận diện tích 9.104,9m2 có nguồn gốc của gia đình cụ Thiều, cụ Bông và kiến nghị UBND huyện Phú Quốc thu hồi GCNQSDĐ của gia đình bà Muôn, giao 9.104,9m2 cho ông Thắng (đại diện gia đình các con cụ Thiều, cụ Bông). Vợ chồng ông Hùng sau đó kháng cáo lên TAND tỉnh Kiên Giang.
Tại bản án phúc thẩm số 104/2010/DSPT ngày 29/03/2010, TAND tỉnh Kiên Giang tuyên ngược lại: Công nhận diện tích 9.104,9m2 là của vợ chồng ông Hùng; buộc gia đình ông Thắng tháo gỡ nhà ở và công trình trên đất giao trả lại diện tích 9.104,9m2.
Sau phiên phúc thẩm, gia đình ông Thắng tiếp tục khiếu nại đến TAND tối cao. Ngày 23/05/2011, TAND Tối cao ra Quyết định số 383/2011/DS-GĐT với nội dung hủy phán quyết của 2 cấp tòa sơ thẩm, phúc thẩm trước đó và giao TAND huyện Phú Quốc tổ chức xét xử lại theo đúng quy định pháp luật.
Khúc mắc xảy ra là ngay sau khi TAND tỉnh Kiên Giang ra phán quyết, ngày 20/04/2010, bà Muôn có đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 28/04/2010, Chi cục THA huyện Phú Quốc ra quyết định số 297/QĐ-THA buộc nhóm ông Thắng, Chiến và bà Ngọc Anh phải tháo gỡ các công trình trên đất và đã thực hiện nhiều hành động có dấu hiệu làm trái các quy định của pháp luật.
Đầu tiên, ngày 06/8/2010, chấp hành viên Đặng Thị Lượng lập biên bản tự thỏa thuận bán căn nhà của gia đình ông Thắng cho bà Muôn với giá 48.371.000 đồng rồi giao cho một cán bộ trong Chi cục THA đi gửi tiết kiệm mà không có sự thỏa thuận của các bên. Tới 24/9/2010, bà Lượng (là Chủ tịch Hội đồng cưỡng chế) đã cho tháo gỡ toàn bộ căn nhà trên khu đất nói trên chở về cơ quan THA án bỏ ngoài mưa nắng gây hư mục. Mãi tới 24/02/2011, Chi cục THA mới tự thuê Công ty CP Thẩm Định Giá Miền Nam thẩm định giá trị của căn nhà chỉ còn 8 triệu đồng rồi tự ý lấy một phần vật liệu căn nhà để làm nhà giữ xe.
Quá bức xúc, ngày 03/12/2012, gia đình ông Thắng có đơn tố cáo vụ việc đến cơ quan THA tỉnh Kiên Giang. Ngày 12/12/2012, cơ quan THA tỉnh kết luận: “Chi Cục Trưởng chi cục THA huyện Phú Quốc Đinh Xuân Định thiếu tinh thần trách nhiệm, có hành vi vi phạm pháp luật THA dân sự, chỉ đạo cưỡng chế sai quy định, sử dụng tài sản của đương sự bị cưỡng chế trái phép...”
Sau quyết định này, ngày 14/01/2013, tại UBND xã Hàm Ninh, huyện Phú Quốc, Cục THA tỉnh đã mời ông Định, bà Lượng cùng gia đình ông Thắng tới để tiến hành thương lượng việc bồi thường thiệt hại. Tại đây, ông Định và bà Lượng thừa nhận việc tháo gỡ căn nhà chuyển về cơ quan không bảo quản và lấy một phần làm nhà giữ xe là trái quy định pháp luật. Đồng thời, ông Định, bà Lượng chỉ chấp nhận bồi thường số vật liệu đã làm nhà giữ xe, không bồi thường thêm gì khác.
Trong cuộc họp này, gia đình ông Thắng đã đưa ra nhiều hình ảnh chứng minh: Ngoài việc tháo dỡ nhà, đội cưỡng chế đã dùng xe ủi đốn ngã nhiều cây cổ thụ có giá trị của gia đình ông. Tuy nhiên, phía Chi cục THA không chấp nhận bồi thường.
Trước những hành vi có dấu hiệu lạm quyền, vượt quyền trái với quy định pháp luật của Chi cục THA huyện Phú Quốc, người dân đang trông chờ các cơ quan có thẩm quyền mau chóng vào cuộc, làm sáng tỏ vụ việc trước công luận.
Đề nghị cơ quan chức năng làm rõ những vi phạm trong quá trình cơ quan thi Hành Án Huyện Phú Quốc thực hiện việc cưỡng chế nêu trên.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tiền Nhà nước, ngàn tỉ đồng cũng chẳng vội?. Bài báo phản ánh: Trong các vụ án dù là hình sự hay dân sự, khâu đòi bồi thường thiệt hại thường gây ra xung đột giữa bên gây thiệt hại và bên đòi bồi thường.
Khi bản án có hiệu lực, bên được thi hành án sẽ chủ động yêu cầu bên phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ hoặc gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án vào cuộc.
Thế nhưng trong vụ cố ý làm trái xảy ra tại Vinashin, mọi việc lại không diễn ra theo lẽ thường như vậy.
Vụ án này được đưa ra xét xử sơ thẩm từ tháng 3-2012. Các cơ quan, đơn vị bị thiệt hại là các DNNN như Tập đoàn Vinashin, Công ty Công nghiệp Tàu thủy Hoàng Anh, Công ty Công nghiệp Tàu thủy Cái Lân, Công ty Điện Cái Lân, Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Nam Triệu, Công ty Đầu tư Cửu Long. Sau phiên xử, số tiền mà các bị cáo phải bồi thường cho các DNNN này lên tới hơn 1.100 tỉ đồng. Đến phiên phúc thẩm hồi tháng 8-2012, tòa đã tuyên y án sơ thẩm.
Từ khi bản án phúc thẩm có hiệu lực cho đến nay, Cục Thi hành án dân sự TP Hải Phòng - đơn vị có trách nhiệm theo dõi việc thi hành phần trách nhiệm dân sự trong vụ án - vẫn chưa nhận được đơn yêu cầu thi hành án nào. Hỏi Nam Triệu và Cửu Long - hai DNNN có trụ sở tại Hải Phòng - thì các bên được thi hành án này đều nói sẽ tự giải quyết hoặc chưa có ý kiến gì!
Điều đáng nói là các bị cáo trong vụ án ngày đó hầu hết đều là nguyên lãnh đạo những DNNN được thi hành án: Phạm Thanh Bình nguyên là chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc Tập đoàn Vinashin. Trần Văn Liêm nguyên là trưởng Ban Kiểm soát Tập đoàn Vinashin. Nguyễn Văn Tuyên, Đỗ Đình Côn nguyên là tổng giám đốc, phó tổng giám đốc Công ty Hoàng Anh. Trần Quang Vũ nguyên là tổng giám đốc Tổng Công ty Nam Triệu. Nguyễn Tuấn Dương nguyên là chủ tịch HĐQT Công ty Cửu Long. Trong đó, trách nhiệm dân sự lớn nhất thuộc về ông Bình và ông Liêm (liên đới bồi thường hơn 991 tỉ đồng). Còn nhớ, tại các phiên xử, đại diện các đơn vị này hầu như không có ý kiến tranh luận gì về yêu cầu bồi thường, dù chính DN của mình bị thiệt hại.
Sự chậm chạp, thờ ơ của những DNNN được thi hành án đơn giản là do “tế nhị”, “tình cảm” với lãnh đạo cũ hay do các DNNN này cho rằng thiệt hại vụ Vinashin suy cho cùng là Nhà nước (hay dân) gánh cả, việc gì phải vội?
Mới đây, “chuyện lạ” này đã được Cục Thi hành án dân sự TP Hải Phòng báo cáo lên Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp). Tổng cục Thi hành án dân sự dự kiến sẽ đề nghị Bộ GTVT phối hợp với các ngành để bên được thi hành án (tức các DN nói trên) có đơn yêu cầu thi hành, từ đó mới có cơ sở để tổ chức thi hành án nhằm thu hồi tiền công.
4. Báo Người đưa tin có bài Khám nghiệm tử thi ở Vĩnh Phúc: Sơ suất hay sai phạm?. Báo phản ánh: Dư luận đang đặt dấu hỏi về sự mâu thuẫn giữa kết luận mổ tử thi ban đầu và kết luận sau khi cơ quan giám định pháp ý Trung ương giám định lại cái chết gây xôn xao mấy ngày qua tại Vĩnh Phúc.
Ngay sau khi cơ quan giám định pháp y Trung ương tiến hành mổ tử thi Nguyễn Tuấn Anh và giám định lại (chiều 18/3). Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã công bố kết luận: Nạn nhân bị 5 người đánh tử vong.
Dư luận đang đặt dấu hỏi về sự mâu thuẫn giữa kết luận mổ tử thi ban đầu và kết luận sau khi cơ quan giám định pháp ý Trung ương giám định lại. Phải chăng đây là sơ suất về nghiệp vụ dẫn đến giám định sai hay vì một nguyên nhân, áp lực nào đó mà cơ quan chức năng lại công bố cái chết của anh Nguyễn Tuấn Anh là do ngạt nước, bị ngã rơi xuống cống mà chết?
Luật giám định Tư pháp số 13/2012/QH13 đã quy định rất rõ những nguyên tắc làm việc của người khám nghiệm tử thi, mổ tử thi, khai quật tử thi. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tính trung thực, chính xác, khách quan, vô tư và kịp thời. Người giám định pháp lý, người mổ tư thi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định. Luật giám định Tư pháp cũng nghiêm cấm hành vi “cố ý đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật”. Vậy kết luận ban đầu cho rằng anh Tuấn anh chết do ngạt nước, bị ngã xuống cống mà chết có phải là một kết luận sai sự thật, thiếu khách quan, thiếu chính xác?
Đối với những người đã chết thì kết luận khám nghiệm và mổ tử thi là tiếng nói của người đã chết. Kết luận sẽ nói thay họ, họ bị chết giờ nào? Chết ra sao? Chết vì cái gì? Tại sao chết? Do đó tiếng nói ấy phải trung thực và khách quan để người người chết không bị chết một cách oan uổng. Để những người gây ra tội ác không nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Thế nên việc giám định sai, kết luận không chính xác không những khiến dư luận mất lòng tin mà còn có thể dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm.
Nếu như gia đình nạn nhân không đẩy mọi việc trở nên căng thẳng, nếu như không có chuyện 1000 người mang quan tài yêu cầu đòi cơ quan chức năng điều tra lại thì có lẽ cái chết của anh Nguyễn Tuấn Anh sẽ mãi chỉ là một cái chết đáng trách: Do say rượu, ngã rơi xuống cống mà chết.
Thiết nghĩ, cơ quan chức năng ngoài việc vào cuộc điều tra vụ án có dấu hiệu giết người này, cũng nên vào cuộc điều tra và xem xét trách nhiệm của những người làm nhiệm vụ giám định Tư pháp ban đầu đối với tử thi của nạn nhân Nguyễn Tuấn Anh. Chứ không lẽ lại coi đây là một sai sót nghiệp vụ?
5. Báo Tiền phong Online có bài Bán nhà cho người thu nhập thấp: Quy định của Hà Nội bị “tuýt còi”. Bài báo phản ánh: Chiều 21/3, ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) cho biết, Cục đã đề nghị UBND TP Hà Nội xử lý nội dung chưa phù hợp trong Quyết định số 13 ngày 14/6/2012, quy định việc bán, cho thuê, cho thuê mua và quản lý sử dụng nhà ở cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị (gọi tắt là Quyết định 13).
Theo đó, Quyết định số 13 quy định: “Đối với các trường hợp có nhu cầu mua và thuê mua nhà ở thu nhập thấp thì phải là đối tượng có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú tại các quận và đối tượng hưởng lương ngân sách có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú tại các huyện”.
Theo Bộ Tư pháp, quy định này lại trái với Thông tư số 36 ngày 16/11/2009 của Bộ Xây dựng. Ngoài đối tượng hưởng lương từ ngân sách, Thông tư 36 còn quy định đối tượng là người lao động thuộc các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (kể cả trường hợp đã được nghỉ theo chế độ quy định); người lao động tự do, kinh doanh cá thể có thu nhập; Hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị Nhà nước thu hồi nhà ở, đất ở... Thông tư số 36 cũng quy định, các trường hợp có nhu cầu mua và thuê mua nhà ở thu nhập thấp phải có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn tại tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư nơi có dự án.
Như vậy, Quyết định 13 của UBND TP Hà Nội đã thu hẹp đối tượng đối tượng được mua, thuê mua nhà; khi quy định chỉ những người hưởng lương từ ngân sách mới được mua, gạt những đối tượng không hưởng lương từ ngân sách. Mặt khác, UBND TP Hà Nội lại tự ý cho phép mở rộng thêm đối tượng tạm trú ngắn hạn tại các quận, trái với Thông tư 36.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Thất vọng vì Dự thảo thông tư hướng dẫn vay ưu đãi mua nhà. Bài báo phản ánh: Nhiều người thu nhập thấp vô cùng thất vọng khi dự thảo Thông tư của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn hỗ trợ cho vay mua nhà ở không đề cập đến cho vay mua nhà ở xã hội.
Dự thảo Thông tư hướng dẫn hỗ trợ cho vay mua nhà ở theo tinh thần Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ mà Ngân hàng Nhà nước đang đưa ra lấy ý kiến nêu rõ, mục đích cho vay có hỗ trợ chỉ là để thuê, thuê mua nhà ở xã hội, hoặc mua nhà ở thương mại, không có nội dung người thu nhập thấp được vay để mua nhà ở xã hội.
Một quan chức Bộ Xây dựng cho rằng, theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định 71 của Chính phủ, các loại hình nhà ở xã hội bao gồm cả nhà ở để thuê, thuê mua và nhà để bán. Như vậy, dự thảo của Ngân hàng Nhà nước về cho vay có hỗ trợ đã bỏ sót đối tượng là người vay để mua nhà ở xã hội.
“Với những người thu nhập thấp, để có đủ tiền mua được nhà ở xã hội đã khó, trong khi Ngân hàng Nhà nước lại quy định phải mua nhà ở thương mại mới được vay, như vậy là vô tình làm khó người dân” – một lãnh đạo Bộ Xây dựng bình luận.
Về phía mình, lãnh đạo Vụ Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước) cho rằng, tại điểm a mục 3 phần I của Nghị quyết 02 có quy định “NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước dành một lượng vốn hợp lý (tối thiểu khoảng 3% tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại nhà nước) để cho các đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, thuê mua nhà ở xã hội và thuê, mua nhà ở thương mại…”, vì vậy, Ngân hàng Nhà nước không thể tự “bổ sung” thêm hình thức “mua nhà ở xã hội” vào trong dự thảo Thông tư.
Mặt khác, Luật Nhà ở năm 2005, trong mục 4, chương III (từ điều 45 đến điều 57) về phát triển nhà ở xã hội cũng chỉ quy định 2 hình thức đối với nhà ở xã hội là thuê và thuê mua cho cả đối tượng nhà ở xã hội đầu tư từ ngân sách nhà nước và các tổ chức, cá nhân phát triển nhà ở xã hội.
“Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn ủng hộ các đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang được vay vốn mua nhà ở xã hội theo chương trình này” – lãnh đạo Vụ Tín dụng cho biết – “Bất cứ khi nào các quy định của pháp luật cho phép, Ngân hàng Nhà nước sẽ bổ sung ngay hình thức mua nhà ở xã hội vào Thông tư quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02 của Chính phủ”.
Dự thảo quy định lãi suất 6%/năm, áp dụng trong 3 năm, từ 15/4/2013 đến 15/4/2016, nhưng sau thời điểm đó mới công bố mức lãi suất vay hỗ trợ, và không quy định nguyên tắc biến động lãi suất.
Một nội dung được nhiều người quan tâm, cũng làm “vỡ mộng” của nhiều người thu nhập thấp, người có điều kiện kinh tế hạn chế, đó là “ngoài việc phải đáp ứng các điều kiện tại dự thảo, người vay phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn thông thường thì mới được vay hỗ trợ”. Như vậy, nếu triển khai, chương trình sẽ chỉ hỗ trợ về nguồn vốn và lãi suất, quy trình cho vay và điều kiện tín dụng thuộc trách nhiệm của các ngân hàng.
Hơn nữa, dự kiến nguồn tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước cho các ngân hàng thương mại (khoảng 30.000 tỉ đồng) chỉ thấp hơn lãi vay vẻn vẹn 1,5% nên các ngân hàng thương mại sẽ chịu thiệt nếu quản lý không tốt việc cho vay. Khi vay, hồ sơ xin vay phải có giấy chứng nhận đúng đối tượng được cấp có thẩm quyền xác nhận. Còn các ngân hàng khi cho vay cũng phải có thông báo trên toàn hệ thống do Trung tâm Thông tin tín dụng quản lý. Do đó trong khuôn khổ gói hỗ trợ này, mỗi khách hàng chỉ có thể được vay một lần và không phải ai muốn vay cũng được.
Điều kiện vay vốn thông thường, trong đó có quy định về tài sản thế chấp, chính là một “điểm nghẽn” trong phân khúc nhà cho người thu nhập thấp, nhà ở giá thấp. Và với nội dung đó, nhiều người sẽ đành phải “đứng ngoài cuộc chơi” vốn giá rẻ để mua nhà.
Bình luận với Pháp luật Việt Nam, một số chuyên gia tài chính cho rằng, một số chi tiết trong dự thảo Thông tư cho vay hỗ trợ nhà ở có thể khiến luồng tiền chủ yếu đổ về doanh nghiệp bất động sản, thay vì người thu nhập thấp, công chức, viên chức.
Dự tính, 3% tổng dư nợ của 5 ngân hàng được chọn là Agribank, Vietinbank, BIDV, Vietcombank và MHB Bank khoảng 41.000 tỷ đồng. Số vốn này, nếu chỉ chờ cho vay cá nhân (khoản vay ước không quá 800 triệu đồng), thì phải hàng chục ngàn khoản vay mới giải ngân hết số tiền đó.
“Trong trung hạn, khó kiếm đâu ra hơn 50.000 căn hộ có diện tích nhỏ và giá bán thấp như trên để mà cho vay, lại càng khó kiếm hơn 50.000 người sẵn sàng vay tiền để ra cách trung tâm ít nhất 15-20km ở trong những căn hộ như thế”, ông Nguyễn Quang Vinh, chuyên gia tài chính độc lập, nhận định. Đó là chưa kể biên lãi ròng 1,5% là quá thấp, không đủ để phía ngân hàng bù đắp rủi ro và chi phí nếu cho vay cá nhân, nhất là khi các khoản vay dưới dạng này vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro như bình thường.
Bên cạnh đó, ngân hàng sẽ tốn thêm nhiều chi phí thực hiện các thủ tục hành chính liên quan, trong khi kinh nghiệm cho vay đối tượng thu nhập thấp chưa nhiều, đang phải “vừa làm vừa dò”.
“Vì thế, ngân hàng sẽ lựa chọn cho khách hàng có khả năng hấp thụ vốn lớn, thủ tục nhanh gọn, chi phí tăng thêm thấp, và khả năng tài chính và lịch sử tín dụng rõ ràng, ít nhất là trong con mắt của ngân hàng”, ông Vinh nói. “Ở đây, đối tượng này khó có thể là ai khác ngoài doanh nghiệp bất động sản, nhất là các doanh nghiệp vốn đã là khách vay của ngân hàng”.
2. Báo Thanh niên Online có bài Chở trẻ phải kèm giấy khai sinh?. Bài báo phản ánh: Một quy định có chủ đích tốt nhưng chưa cụ thể, buộc người đi đường phải luôn mang theo giấy khai sinh của trẻ em...
Việc chứng minh độ tuổi của trẻ là rất khó vì hiếm khi phụ huynh ra đường lại mang theo giấy khai sinh của con hoặc sổ hộ khẩu. Nhiều trẻ có thể trạng lớn làm phụ huynh khó giải thích tuổi thật cho lực lượng xử phạt .
Theo Nghị định 71 của Chính phủ, người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe máy điện, các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy mà không đội MBH hoặc cài quai không đúng quy cách bị phạt tiền từ 100.000 - 200.000 đồng. Tương tự, trẻ em từ 6 tuổi trở lên khi tham gia giao thông mà không đội MBH thì người điều khiển phương tiện chở các em sẽ bị phạt từ 100.000 - 200.000 đồng.
Nhiều phụ huynh cho rằng, việc chứng minh độ tuổi của trẻ là rất khó vì hiếm khi phụ huynh ra đường lại mang theo giấy khai sinh của con hoặc sổ hộ khẩu. Nhiều trẻ có thể trạng lớn làm phụ huynh khó giải thích tuổi thật cho lực lượng xử phạt. Chị Nguyễn Trúc Diễm (ngụ P.Tân Thới Nhất, Q.12, TP.HCM) vừa cười vừa nhăn mặt: “Thằng con tôi được chăm kỹ từ nhỏ, sức khỏe cháu cũng tốt, mới 5 tuổi mà cao y như đứa 8 tuổi. Vậy khi tôi chở con ra đường, bị công an thổi phạt thì lấy gì chứng minh. Chẳng lẽ lại đứng cãi với công an?”.
Còn chị Nguyệt, một phụ huynh có con học ở Trường tiểu học Nam Thành Công (Q.Đống Đa, TP.Hà Nội) phân trần: “MBH thì nhà cũng có đấy, nhưng trên đường đi làm là đưa các cháu đi học luôn. Đội MBH cho hai cháu thì mình sẽ chẳng biết cất mũ vào đâu”. Khi được hỏi, từ ngày 1.4, CSGT Hà Nội sẽ tiến hành xử phạt trẻ từ 6 tuổi lên khi tham gia giao thông không đội MBH, chị Nguyệt nói chỉ mới nghe loáng thoáng, và cho hay tới ngày đó chị sẽ cho các cháu đội MBH. Không riêng gì chị Nguyệt, mà nhiều bậc phụ huynh khác cũng tỏ ý băn khoăn. “Với các cháu chưa đủ tuổi để cấp giấy CMND thì sẽ căn cứ vào đâu để xác định các cháu đã lớn hơn 6 tuổi. Chính vì vậy mà từ việc xử phạt này, nhiều người lớn, bậc phụ huynh sẽ nói dối, nói con em mình chưa đủ 6 tuổi”, một bậc phụ huynh có con học Trường Lê Quý Đôn nằm trên địa bàn Q.Cầu Giấy, chia sẻ.
Trước những băn khoăn trên của phụ huynh, thiếu tá Trần Hồng Minh cho biết: “Về hành vi vi phạm này, CSGT vừa xử lý vừa nhắc nhở. Những trường hợp nào rõ ràng vi phạm - có thể dựa vào phù hiệu ghi tên trường lớp để xác nhận, người vi phạm thừa nhận hành vi vi phạm của mình thì CSGT lập biên bản xử lý; nếu trường hợp nào nhỏ tuổi nhưng vóc dáng phát triển nhanh hơn trẻ cùng trang lứa… thì CSGT khuyến cáo cũng nên đội MBH vì quyền lợi cho bản thân của trẻ.
Trao đổi với Thanh Niên, trung tá Nguyễn Văn Tài - Đội trưởng Đội Tuyên truyền và Điều tra giải quyết tai nạn giao thông (PC67 - Công an TP.Hà Nội), cho hay việc xử lý vi phạm không đội MBH đối với trẻ em khi tham gia giao thông đã được quy định tại Nghị định 32 ban hành từ năm 2007. Tuy nhiên, cũng từ thời điểm đó cho tới nay, việc xử phạt theo nghị định gần như bị lãng quên. Tuy nhiên, trung tá Tài cũng thừa nhận việc xử lý hành vi này hiện vẫn còn một số vướng mắc, như làm cách nào để dễ dàng, thuận tiện, nhanh chóng xác minh được chính xác độ tuổi của trẻ, để tránh những vụ tranh cãi không đáng có giữa phụ huynh và CSGT trên đường phố; đồng thời tránh việc các bậc phụ huynh suy nghĩ rằng phải đem theo giấy khai sinh khi đưa trẻ cùng tham gia giao thông.
Theo ý kiến một chuyên gia giao thông, tốt nhất là nên quy định phải đội MBH (trọng lượng mũ tùy thuộc độ tuổi do phụ huynh chọn) cho tất cả trẻ có khả năng tự ngồi trên các loại xe được quy định phải đội MBH.