Điểm tin báo chí sáng ngày 19 tháng 3 năm 2013

19/03/2013
Trong ngày 18/3 và đầu giờ sáng ngày 19/3/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

            1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:

            - Báo Nhân dân điện tử có bài Tôn trọng và bảo đảm quyền con người; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài báo phản ánh: Ngày18-3, tại Hà Nội, tập thể lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra T.Ư (UBKT T.Ư) tổ chức hội nghị thảo luận, góp ý vào các nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ðồng chí Ngô Văn Dụ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Chủ nhiệm UBKT T.Ư chủ trì hội nghị.

            Các ý kiến phát biểu cho rằng, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này có nhiều điểm mới; kế thừa và phát huy được giá trị của các bản hiến pháp trước đó; tiếp tục khẳng định và thể hiện rõ tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nội dung Dự thảo đã bảo đảm cụ thể hóa các quan điểm của Ðảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Ðại hội Ðảng khóa XI, các Nghị quyết T.Ư 2 và Nghị quyết T.Ư 5 (khóa XI) về sửa đổi Hiến pháp. Ðã xác lập được cơ chế kiểm soát quyền lực trong các cơ quan bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

            Dự thảo đã thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hành dân chủ xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện rõ nội dung đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó Ðảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

            Trước đó, góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, cán bộ, đảng viên, công chức Cơ quan UBKT T.Ư cũng đã thảo luận, bày tỏ quan điểm, chính kiến khẳng định Ðiều 4 Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Ðảng, về chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang (không phi chính trị hóa quân đội); về nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước (không tam quyền phân lập); giữ tên nước như trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

            Cùng ngày,  tại Hà Nội, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã tổ chức Hội nghị góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ðồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư T.Ư Ðảng, Chánh án TANDTC, Ủy viên Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 dự và chủ trì hội nghị.

            Góp ý Lời nói đầu của Hiến pháp, một số đại biểu đề nghị bổ sung nội dung tại đoạn 4, viết lại như sau: "Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Ðảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện chủ quyền nhân dân, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí quyền lực của nhân dân và chủ quyền quốc gia; xác định cơ chế, phương thức phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc...".

            Về Chương I, Chế độ chính trị , nhiều đại biểu đề nghị, Ðiều 1, nên đưa  cụm từ "độc lập" lên trước cụm từ "dân chủ", viết lại  là: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển, thềm lục địa, vùng trời" ; về Ðiều 6, các đại biểu đề nghị nên đưa thêm cụm từ " tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác" vào cuối Ðiều 6; về nội dung Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân (Chương VIII), các đại biểu đề nghị tách Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân ra thành hai chương, bởi vì Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp còn Viện Kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố. Các đại biểu đề nghị thay cụm từ "lợi ích hợp pháp" ở cuối Khoản 7, Ðiều 108 bằng cụm từ "quyền và lợi ích hợp pháp".

            Văn phòng Ðại biểu Quốc hội và HÐND thành phố Hà Nội tổ chức hội nghị cán bộ, công chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Phần lớn các đại biểu nhất trí về nội dung sửa đổi và bố cục của dự thảo Hiến pháp. Một số đại biểu góp ý chỉnh sửa vào một số điều khoản cụ thể.

            Tại Chương IX, về chính quyền địa phương, một số ý kiến cho rằng Khoản 2, Ðiều 115 về việc thành lập HÐND, UBND và Khoản 2, Ðiều 116 quy định UBND là cơ quan chấp hành của HÐND, nhưng lại không quy định UBND do HÐND bầu như Ðiều 123 Hiến pháp hiện hành là khá "mở", tạo sự linh hoạt khi xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, việc thực hiện thí điểm không tổ chức HÐND ở quận, huyện, phường chưa được tổng kết, đánh giá để khẳng định là có đạt kết quả tốt hay không. Vì vậy, cần sớm có tổng kết, đánh giá việc thí điểm để có những quy định phù hợp trong Hiến pháp sửa đổi lần này. Mặt khác, để có cơ sở xây dựng Luật Tổ chức và hoạt động của HÐND, UBND sau này, đại biểu đề nghị bổ sung cụm từ "trong trường hợp cần thiết HÐND thành lập Ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định ở địa phương" vào cuối Khoản 1, Ðiều 116 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

            - Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Phải thể hiện rõ chủ quyền nhân dân. Bài báo phản ánh: Điều 2 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã khẳng định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.

            Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (HP) 1992, trong phần Lời nói đầu có sử dụng một cụm từ mới: Chủ quyền nhân dân. Mới vì đây là lần đầu tiên khái niệm vốn vẫn được giới học thuật sử dụng lâu nay, giờ được nâng lên thành hiến định. Nhưng cũng không thực sự mới, bởi chủ quyền nhân dân vẫn đang hiện diện, ít nhất dưới quan điểm đã được khẳng định từ lâu: Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc nhân dân.

            Hệ thống chính trị nước ta, qua biến động lịch sử, đến nay được tổ chức, vận hành theo nguyên tắc nhất nguyên chính trị, với Đảng Cộng sản VN là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Nhưng không vì vậy mà chủ quyền nhân dân không được thực thi.

            Chẳng hạn, dưới hình thức dân chủ đại diện, QH thông qua HP với điều khoản về vị trí lãnh đạo của Đảng. Đảng là lực lượng lãnh đạo nhưng không đương nhiên cầm quyền, mà phải thông qua giới thiệu thành viên ưu tú của tổ chức mình, thông qua bầu cử, để nhân dân lựa chọn giao cho quyền lực nhà nước. Tương tự, quyền lựa chọn, tham gia đảng chính trị của công dân dù chưa được luật hóa nhưng đã thể hiện phần nào qua Điều lệ của Đảng.

            Theo dự thảo tại Điều 6, nhân dân không chỉ thực hiện quyền lực nhà nước dưới hình thức dân chủ đại diện (thông qua QH, HĐND - theo HP 1992), mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Ảnh: HTD

            Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước trong hơn 20 năm qua, cùng những khó khăn mà đất nước đang gặp phải cho thấy chủ quyền nhân dân chưa được nhận thức và thực thi đầy đủ, nguyên tắc “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân” (HP 1946) chưa thực sự được coi trọng.

            Nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém ấy, Dự thảo sửa đổi HP 1992, ngoài việc đưa vào và khẳng định trong Lời nói đầu về chủ quyền nhân dân, đã có nhiều điều chỉnh, bổ sung. Chẳng hạn, ở Điều 4 tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời đòi hỏi Đảng phải “chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.

            Dự thảo tại Điều 2 đặt ra nguyên tắc phải có “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tại Điều 6 dự thảo, nhân dân không chỉ thực hiện quyền lực nhà nước dưới hình thức dân chủ đại diện (thông qua QH, HĐND - theo HP 1992), mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Chủ quyền nhân dân, theo dự thảo, còn được làm rõ hơn qua việc QH không còn là “cơ quan duy nhất” thực hiện quyền lập hiến...

            Những sửa đổi ấy mở ra khả năng nhân dân tham gia ngày càng nhiều hơn, trực tiếp hơn, có tính chất quyết định hơn vào tổ chức và quản trị đời sống xã hội.

            Nhưng chủ quyền nhân dân không chỉ biểu hiện dưới các quy phạm HP. Quan trọng hơn, nó được thực thi hằng ngày trong đời sống của xã hội công dân. Trong thực thể sống động ấy, ở nước ta có một chủ thể đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc, cùng các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Các chủ thể ấy liên quan mật thiết tới thực thi chủ quyền nhân dân.

            Nhìn vào lịch sử hình thành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên là các hình thức tập hợp lực lượng, tổ chức lực lượng của Đảng, ra đời trong quá trình đấu tranh giành chính quyền. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện hòa bình và Đảng đã xác lập được quyền lãnh đạo tới Nhà nước và toàn xã hội thì việc tổ chức, phương thức hoạt động, quyền thành lập các tổ chức dân sự cần được đổi mới phù hợp. Đổi mới ấy phải thể hiện được chủ quyền nhân dân trong tổ chức đời sống xã hội, gắn với thể chế hóa chủ trương củng cố, phát huy tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đại hội XI đặt ra.

            Yêu cầu đổi mới ấy quay trở lại đòi hỏi việc sửa đổi HP lần này phải diễn đạt rõ hơn, chặt chẽ hơn để đảm bảo người dân thực hiện được các quyền ngôn luận, hội họp, lập hội với đúng bản chất là quyền tự do. Các quyền ấy phải được coi là quyền tự do hiến định và chỉ có thể bị hạn chế bởi luật chứ không phải là “có quyền […] theo quy định của pháp luật”. Đấy cũng là khẳng định chủ quyền nhân dân, đúng như vị trí trang trọng của nó, ở phần đầu tiên của HP - Lời nói đầu.

            2. Báo Phụ nữ Online có bài Phạt vi phạm hành chính trong hôn nhân và gia đình: Những giải pháp bế tắc. Bài báo phản ánh: Nhiều ý kiến đã tỏ ra hoài nghi chế định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình mà Bộ Tư pháp đưa ra lấy ý kiến (Dự thảo Nghị định Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp).

            Người ta cho rằng, nó chưa nhắm đến việc bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em; rằng hôn nhân gia đình là vấn đề đạo đức, văn hóa của người Việt, sao lại phạt tiền; rồi việc định lượng “ông ăn chả bà ăn nem” thế nào để có thể quy ra người này phạt hai trăm, người kia một triệu? Người ta còn hoài nghi chế tài phạt tiền ấy liệu có cải thiện được môi trường hôn nhân và gia đình, làm cho nó lành mạnh lên không. Tóm lại là hoài nghi đủ thứ...

            Cảnh cáo và phạt tiền là hai hình thức phạt chính, cảnh cáo đi trước phạt tiền. Các hành vi như tảo hôn; tổ chức tảo hôn; vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng; kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; kết hôn giữa những người cùng giới tính; vi phạm quy định về đăng ký khai sinh… tùy mức độ mà áp dụng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền. Vấn đề kết hôn đồng giới dù đang được bàn cãi sôi sục nhưng pháp luật hiện hành cấm hành vi này nên vi phạm cũng bị xử lý. Việc xử phạt các hành vi trên được quy định từ năm 2001(Nghị định 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001), so với dự thảo 2013 chỉ có một khác biệt là mức tiền phạt 2013 nâng cấp, ví dụ năm 2001 là từ 100.000đ đến 500.000đ thì nay gấp đôi, từ 200.000đ đến một triệu.

            Nhiều hành vi được thòng câu “nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng” như lá bùa để “giải cứu” người vi phạm. Câu thòng này đặc biệt “đắc địa” đối với hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Tôi xin được trao đổi lại, việc ngoại tình và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng là không đồng nhất. Theo Hướng dẫn tại điểm 3.1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/9/2001 liên Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thì chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai, nhưng cùng sinh hoạt như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung, đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó. Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát...

            Có một thực tế, dường như tiền phạt tỷ lệ thuận với sự gia tăng vi phạm, đành phải nâng cấp phạt để theo kịp giá cả leo thang và đồng thời là sự xuống cấp đạo đức xã hội. Luật Xử lý vi phạm hành chính Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014 quy định mức phạt tiền tối đa 30 triệu đồng đối với cá nhân trong các lĩnh vực như hôn nhân gia đình, bình đẳng giới, bạo lực gia đình, hành chính tư pháp. Có ý kiến cho rằng, mức phạt trong dự thảo chưa đủ “đô” để răn đe vi phạm. Tôi thì cho rằng phạt tiền là giải pháp… bế tắc, vì lời giải không nằm ở tiền, mà ở lòng tự trọng của mỗi người và trách nhiệm công dân trước xã hội. Giả như, thu nhập cá nhân được kiểm soát tốt và tiền phạt tương thích với hầu bao người vi phạm, thì việc phạt tiền mới là tối ưu.

            3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chuẩn bị cấp mã số định danh cho mỗi công dân Việt Nam. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp vừa hoàn thành dự thảo Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu quốc gia liên quan đến quản lý dân cư yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ.

            Trong đó, dự kiến việc cấp mã số định danh sẽ được triển khai từ tháng 6-2013 đến tháng 5-2014. Số định danh cá nhân sẽ gồm 12 chữ số, cấp cho mỗi công dân Việt Nam từ khi khai sinh, không thay đổi trong suốt cuộc đời, không lặp lại ở người khác.

            UBND cấp xã cấp số định danh cá nhân cho công dân mới sinh khi đăng ký khai sinh kể từ ngày Luật Hộ tịch có hiệu lực thi hành. Đối với công dân đã đăng ký khai sinh trước ngày Luật Hộ tịch có hiệu lực, công an cấp huyện, cấp tỉnh có thẩm quyền cấp mã số định danh khi công dân thực hiện đăng ký thường trú hoặc cấp mới, đổi, thay thế chứng minh nhân dân.

            Theo tính toán của Bộ Tư pháp, nếu triển khai thực hiện đề án, ước tính hằng năm sẽ cắt giảm khoảng 3.400 tỉ đồng chi phí về thời gian điền thông tin công dân trên mẫu đơn, tờ khai và hoạt động sao chụp, chứng thực.

            4. Báo Nhân dân điện tử có bài Chứng thực - mắt xích “mỏng” của cải cách tư pháp. Bài báo phản ánh: Sau năm năm triển khai thực hiện Nghị định số 79/2007/NĐ-CP cùng với công chứng, công tác chứng thực ở nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là hoạt động xây dựng thể chế. Tuy nhiên hoạt động công chứng vẫn còn bộc lộ những vướng mắc, bất cập, hạn chế.

            Để tạo điều kiện và giải quyết nhu cầu chính đáng của người dân, UBND cấp huyện, xã hiện vẫn vận dụng linh hoạt quy định pháp luật để xác nhận cho người có yêu cầu, song mỗi cơ quan thực hiện chứng thực một cách khác nhau đối với cùng loại việc.

            Thí dụ, cùng xác nhận Sơ yếu lí lịch cá nhân, nhưng có cơ quan thực hiện chứng thực theo hình thức chứng thực chữ ký, có cơ quan xác nhận nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của người khai. Văn bản chứng thực được công nhận một cách tự phát theo thói quen không có cơ sở pháp lý rõ ràng.

            Bên cạnh đó việc phân cấp hoạt động chứng thực chủ yếu căn cứ vào thực trạng cán bộ, chưa thực sự căn cứ vào tính chất hành vi, giá trị pháp lý của văn bản chứng thực. Điều đó dẫn đến việc quy định thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong văn bản, giấy tờ bằng tiếng nước ngoài và văn bản, giấy tờ song ngữ thuộc về Phòng Tư pháp cấp huyện. UBND cấp xã chỉ chứng thực văn bản giấy tờ bằng tiếng Việt.

            Về bản chất nhiệm vụ của người làm công tác chứng thực là kiểm tra, đối chiếu, bảo đảm bản sao giấy tờ, văn bản đúng với bản gốc và xác định chữ ký là đúng của người xuất trình giấy tờ tùy thân. Do đó khi thực hiện đối với văn bản, giấy tờ bằng tiếng nước ngoài, song ngữ cũng tương tự như đối với văn bản, giấy tờ bằng tiếng Việt. Tuy nhiên do chất lượng cán bộ cấp xã còn chưa cao nên những giấy tờ kiểu này “tốt nhất” là giao cho cấp huyện cho “chắc”.

            Hiện nay tình trạng lạm dụng bản sao chứng thực còn phổ biến, gây tốn kém, lãng phí cho xã hội. Cán bộ công chức tại các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ chưa có cơ chế chịu trách nhiệm trong việc đối chiếu văn bản, giấy tờ trong hồ sơ với bản chính.

            Vẫn còn một số cán bộ tiếp nhận hồ sơ có tâm lý “sợ trách nhiệm” nên không chấp nhận bản chụp để đối chiếu với bản chính mà buộc người có yêu cầu phải nộp bản sao có chứng thực hoặc bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ gốc dù đã có bản sao có chứng thực. Điều này làm tăng số lượng việc chứng thực không cần thiết, gây lãng phí tiền của, thời gian, gây phiền hà, sách nhiễu đối với người dân, làm giảm hiệu lực quy định của pháp luật.

            Theo quy định của Nghị định 75/2000/NĐ-CP thì văn bản chứng thực hợp đồng, giao dịch tại UBND cấp huyện, xã vẫn bảo đảm giá trị pháp lý như văn bản công chứng. Vấn đề chứng thực hợp đồng giao dịch, đặc biệt là nhu cầu giao dịch dân sự thường ngày của nhân dân là rất lớn đặc biệt là các giao dịch về đất đai, tài sản liên quan đến đời sống, sinh hoạt của dân như phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt…

            Do loại giao dịch này có tần suất cao nên người dân có yêu cầu thực hiện thủ tục giao dịch nhanh chóng. Nhiều trường hợp, cùng một loại việc cùng trình tự thủ tục, giá trị pháp lý mà lệ phí chứng thực tại UBND cấp huyện thấp hơn nhiều so với phí công chứng. Do đó nếu được lựa chọn người có yêu cầu ‘thích” chứng thực hợp đồng, giao dịch hơn là công chứng.

            Theo Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành thì hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch sẽ chuyển giao từ UBND cấp huyện, xã cho tổ chức hành nghề công chứng. Tuy việc triển khai chủ trương xã hội hóa công chứng đã triển khai đồng loạt tại 63 tỉnh thành trên cả nước song chưa đồng đều. Có địa bàn phát triển “nóng” có những vùng xâu vùng xa kinh tế khó khăn thì việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng lại chậm chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.

            Thậm chí theo Phó Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội Phạm Văn Phương, ngay cả ở một số huyện ở Hà Nội người dân cũng phải đi đến 50km mới chứng thực được hợp đồng, giao dịch của mình. Và tất nhiên việc đi lại để thực hiện thủ tục này của dân không phải một lần. Do đó nếu để UBND cấp huyện xã tiếp tục thực hiện việc chứng thực hợp đồng, giao dịch vẫn bảo đảm cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn.

            Theo báo cáo năm năm thi hành Nghị định 79/2007/NĐ-CP của Bộ Tư pháp, để thực hiện chủ trương tách bạch về bản chất giữa hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020, việc xây dựng và ban hành Luật Chứng thực là cần thiết.

            Trong định hướng xây dựng Luật chứng thực cũng cần theo hướng đối với những hợp đồng giao dịch không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu thì người dân sẽ có quyền lựa chọn công chứng hoặc chứng thực với giá trị pháp lý, lệ phi, phí tương đương. Quy định về trình tự, thủ tục chứng thực cần kết hợp với việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” … Bên cạnh đó luật cũng cần quy định chặt chẽ việc chứng thực bản sao từ bản chính các loại giấy tờ văn bản để tránh việc lạm dụng.

            Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về chứng thực, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện quy định về chứng thực cũng phải được tăng cường để có hướng dẫn đầy đủ, phù hợp về mức, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng các loại phí, lệ phí chứng thực.

           

 

            II- THÔNG TIN KHÁC

            1. Báo Điện tử Sài Gòn tiếp thị Media có bài Sao không cho dân thời gian sửa sai?. Bài báo phản ánh: Ngày 1.3.2013, lãnh đạo bộ Công an ký ban hành hai thông tư 11 và 12, cùng có hiệu lực từ ngày 15.4.2013, với những quy định rất tiến bộ. Nhưng vì thiếu sự phối hợp nên hai văn bản này lại tạo ra hoàn cảnh khá oái oăm cho số phận của một chủ trương đúng đắn.

            Cụ thể, hướng dẫn việc xử phạt một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ, trong đó có hành vi không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định, thông tư 11 yêu cầu cảnh sát giao thông không được dừng xe để kiểm soát, xử lý hành vi này. Việc xử lý chỉ được thực hiện khi phát hiện hành vi vi phạm thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hợp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự. Việc xử phạt được bắt đầu từ ngày 15.4.2013.

            Trong khi đó, thông tư 12 quy định từ ngày 15.4.2013 đến ngày 31.12.2014, việc giải quyết đăng ký xe đối với trường hợp xe đã đăng ký, chuyển nhượng qua nhiều người sẽ được thực hiện với thủ tục cực kỳ đơn giản, theo hướng cho người đi đăng ký tự cam kết.

            Còn nhớ khi nghị định 71/2012 ra đời với mức phạt xe không chính chủ cao ngất, vấp phải sự phản ứng dữ dội của dư luận, Chính phủ đã phải chỉ đạo tạm dừng xử phạt, giao các bộ liên quan rà soát thủ tục sang tên xe (bộ Công an), mức phí trước bạ hợp lý (bộ Tài chính) để tạo điều kiện cho người dân thực hiện đúng pháp luật, cũng là tạo điều kiện để việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực tốt hơn, hiệu quả hơn. Thực hiện chỉ đạo này, bộ Công an đã ban hành thông tư 12 để gỡ vướng cho việc đăng ký sở hữu cho xe đã qua nhiều đời chủ (phí trước bạ thì vẫn đang phải chờ bộ Tài chính) được dư luận hoan nghênh nhưng tiếc thay, việc tháo gỡ ấy của bộ Công an cuối cùng lại mất đi nhiều ý nghĩa chỉ bởi một chi tiết thiếu cân nhắc, đó là quy định thời hiệu thực hiện giữa thông tư 12 và thông tư 11, cũng do bộ này ban hành.

            Không ít ý kiến cho rằng nếu các cơ quan quản lý nhà nước thật sự muốn khuyến khích và tạo điều kiện cho dân sửa sai nhằm sống và làm việc theo đúng luật pháp, thì nên cho người dân được phép đăng ký sang tên đổi chủ xe với thủ tục đơn giản trong một thời gian nhất định rồi sau đó hãy bắt đầu xử phạt. Được như vậy, hẳn người dân phải “tâm phục khẩu phục” dù sau này có bị phạt với mức cao hay thậm chí không được phép đăng ký.

            Một điều khác cũng đáng quan tâm trong vụ việc này, đó là vai trò của bộ phận kiểm soát văn bản pháp luật của bộ Tư pháp. Ngoài nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật lâu nay, mới đây, bộ Tư pháp còn được giao nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi thi hành pháp luật. Thế nhưng khi dư luận nêu vướng mắc liên quan đến các thủ tục hành chính, đến văn bản pháp luật, chưa thấy cơ quan này lên tiếng. Người dân – thông qua các cơ quan báo chí – không biết gõ cửa nơi nào để tìm câu trả lời cho những băn khoăn của mình. Vậy, rốt cuộc, ai sẽ trả lời?

            2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Dành 30.000 tỷ đồng hỗ trợ cho vay mua nhà ở xã hội với lãi suất 6%. Bài báo phản ánh: Ngân hàng nhà nước dự kiến dành 30.000 tỷ đồng hỗ trợ 5 ngân hàng để cho các đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang... vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở với lãi suất ổn định 6% trong 3 năm và thời hạn hỗ trợ lãi suất tối đa là 10 năm.

            Thông tin trên được nêu trong dự thảo thông tư quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ vừa được Ngân hàng nhà nước công bố lấy ý kiến nhân dân.

            Dự thảo quy định rõ 3 nhóm đối tượng khách hàng được vay vốn từ chính sách hỗ trợ trên gồm: 1. Đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, thuê mua nhà ở xã hội; 2. Đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, mua nhà ở thương mại có diện tích nhỏ hơn 70 m2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2; 3. Các doanh nghiệp là chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội; các doanh nghiệp là chủ đầu tư các dự án nhà ở thương mại được chuyển đổi công năng sang dự án nhà ở xã hội, theo thông báo của Bộ Xây dựng.

            Ngân hàng Nhà nước sẽ dành tối đa 30.000 tỷ đồng hỗ trợ 5 ngân hàng thương mại nhà nước để cho vay các đối tượng nêu trên, thông qua hình thức tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng cho mục tiêu cho vay hỗ trợ nhà ở thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với khách hàng là 1,5%/năm tại cùng thời điểm. Các ngân hàng có trách nhiệm trả lãi tái cấp vốn hàng tháng cho Ngân hàng Nhà nước.

            Về lãi suất cho vay, dự kiến áp dụng lãi suất ổn định 6%/năm đến thời điểm 15/4/2016 (trong 3 năm). Sau thời điểm này khách hàng tiếp tục được hưởng chính sách lãi suất hỗ trợ theo công bố của Ngân hàng Nhà nước.

            Trong đó, thời hạn cho vay đối với đối tượng mua, thuê, thuê mua nhà tối thiểu 10 năm và tối đa là 5 năm đối với doanh nghiệp.

            Còn về số tiền được vay, các khách hàng vay mua, thuê, thuê mua nhà thì số tiền vay tối thiểu là 80% phương án vay và 70% đối với doanh nghiệp (khách hàng có vốn tham gia vào phương án vay theo quy định của ngân hàng nhưng không quá 20% đối với người mua, thuê, thuê mua nhà và 30% đối với doanh nghiệp).

            Ngân hàng Nhà nước cũng dự kiến thời hạn được hỗ trợ lãi suất tối đa là 10 năm (dự kiến đến ngày 15/4/2023 các ngân hàng hoàn trả hết khoản vay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước và dư nợ còn lại của khách hàng tại các ngân hàng từ thời điểm này được chuyển sang hình thức cho vay bằng nguồn vốn của ngân hàng).

            Cũng trong dự thảo này, Ngân hàng Nhà nước còn quy định cụ thể về điều kiện cho vay.Theo đó, khách hàng mua, thuê, thuê mua nhà ở phải có hợp đồng với chủ đầu tư theo quy định; cam kết vay vốn để mua, thuê, thuê mua một căn nhà duy nhất để ở và chưa được vay vốn hỗ trợ lãi suất để mua, thuê, thuê mua nhà ở tại các ngân hàng khác.

            Còn đối với khách hàng là các doanh nghiệp, dự thảo yêu cầu phải có tên trong danh mục chủ đầu tư các dự án nhà ở xã hội, dự án chuyển đổi công năng từ dự án nhà ở thương mại sang dự án nhà ở xã hội do Bộ Xây dựng thông báo cho Ngân hàng Nhà nước.



File đính kèm