I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:
- Báo Nhân dân điện tử có bài Các trí thức, luật gia, chức sắc tôn giáo góp ý vào dự thảo. Bài báo đưa tin: Sáng 20-3, tại Hà Nội, Ban Thường trực Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị lấy ý kiến của các nhân sĩ, trí thức, luật gia, người tiêu biểu các dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Các đồng chí: Huỳnh Ðảm, Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam; Vũ Trọng Kim, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam; Nguyễn Văn Pha, Phó Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam, chủ trì.
Phát biểu ý kiến tại Hội nghị về Ðiều 4 trong Dự thảo, các đại biểu đại diện trí thức, luật gia, người tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, chức sắc các tôn giáo đã khẳng định vai trò quan trọng của Ðảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Quy định về Ðảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo là tất yếu; qua đó tiếp tục khẳng định mối quan hệ máu thịt Ðảng - Dân. Bên cạnh đó, Dự thảo cần có những quy định nhằm thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Ðảng, đồng thời cụ thể hơn nữa việc Ðảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các ý kiến cho rằng, để Ðảng thật sự gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân, Ðảng cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, loại bỏ những đảng viên không đủ tư cách...
Về Ðiều 9, quy định về MTTQ Việt Nam, hầu hết các đại biểu thống nhất đề nghị Dự thảo cần bổ sung nội dung: MTTQ Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị. Khoản 3 của Ðiều này cần nêu rõ: Nhà nước bảo đảm các điều kiện để MTTQ Việt Nam hoạt động chứ không chỉ là "tạo điều kiện". Ngoài ra, cần tiếp tục làm rõ hơn nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của MTTQ đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức.
Tham gia góp ý kiến vào Ðiều 6, Giáo sư-Luật sư Lưu Văn Ðạt đề nghị Dự thảo cần làm rõ hơn nội dung dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó chú trọng về dân chủ trực tiếp. Ðiều 120 quy định về Hội đồng Hiến pháp là chưa tương xứng với vai trò của Hội đồng này với tư cách là một cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Việc quy định Hội đồng này chỉ có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp hiến, kiến nghị sửa đổi... đối với những văn bản quy phạm pháp luật là chưa phù hợp.
Ðại diện Hội đồng Trị sự T.Ư Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, Hòa thượng Thích Gia Quang bày tỏ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có nhiều điểm mới khi đề cập quyền con người (Ðiều 16) và bảo vệ môi trường (Ðiều 46), nhất là nội dung của Ðiều 25 (sửa đổi, bổ sung Ðiều 70) khi quy định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Ðại biểu này đề nghị, bổ sung vào Ðiều 25 nội dung: Nhà nước tạo điều kiện để các tôn giáo, tổ chức tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật. Về nội dung này, có đại biểu bày tỏ sự đồng tình với ý kiến của Hòa thượng Thích Gia Quang và đề nghị bổ sung khoản 3, Ðiều 25 như sau: Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Ðiều 5 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định về các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam với bốn khoản. Góp ý về nội dung này, đại biểu Lù Văn Que cho rằng: Dự thảo cần bổ sung và khẳng định quyền, nghĩa vụ của các dân tộc bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; chú trọng hơn nữa vấn đề đoàn kết các dân tộc, đồng thời đề cao trách nhiệm của Nhà nước đối với việc bảo đảm các điều kiện để các dân tộc phát triển. Trong đó, tiếp tục chú trọng nâng cao dân trí, đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho nhân dân các dân tộc thiểu số; quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
- Báo Pháp luật Việt Nam có bài Cần hiến định “quyền im lặng” của bị can. Bài báo phản ánh: Quyền mời luật sư và quyền giữ im lặng để tự bào chữa đã được nhiều quốc gia áp dụng. Đây là quyền quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng với vai trò là bị can trong các vụ án hình sự cần được quy định trong Hiến pháp.
Quyền con người và quyền của công dân là nội dung quan trọng trong dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi được các luật sư đặc biệt quan tâm. Ngoài việc yêu cầu phải làm rõ sự khác biệt giữa quyền con người và quyền công dân để tránh sự nhầm lẫn, chồng chéo thì Hiến pháp cần quy định rõ hơn về quyền con người và quyền công dân.
Theo Luật sư Đỗ Ngọc Thịnh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên đoàn luật sư Việt Nam - thì mục tiêu của Nhà nước là xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính vì thế, quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân luôn là một trong các nội dung quan trọng nhất để xây dựng và ban hành Hiến pháp. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã nêu tương đối đầy đủ về các quyền kinh tế, chính trị, xã hội của công dân và quyền con người. Các quy định trong Dự thảo là tương đối phù hợp với cơ sở kinh tế xã hội của Việt Nam.
Tuy vậy, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, cần phải phát huy được nguồn lực con người nên các quyền về kinh tế, chính trị, xã hội cần phải được quy định theo hướng tạo điều kiện cho mỗi người có thể phát huy hết tài năng của họ để mưu cầu hạnh phúc của bản thân họ và họ có thể đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Tài năng của mỗi con người cụ thể và nguồn lực của nhân dân nói chung, đó chính là nguyên khí của quốc gia cần phải được trọng dụng thực sự, cần phải có cơ chế pháp lý để cho người tài có khả năng phát triển tối đa.
Đồng thời, mỗi một người lao động phải được hưởng các giá trị và thành quả lao động tương ứng với khă năng và sức lao động của họ đã đóng góp cho xã hội. Quyền con người và quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhận thì rất cần có được một cơ chế đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật để thực hiện. Bời vì quyền con người và quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận là hết sức thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Có như vậy, nhân dân mới có niềm tin vào công lý vào Nhà nước và pháp luật.
Theo đánh giá của nhiều luật sư, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã khắc phục được cách sắp xếp lộn xộn thứ tự các điều của Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, trong Dự thảo, Chương II vẫn có một Điều được sắp xếp chưa đúng vị trí, như Điều 37, quy định về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở hợp pháp.
Ở đây, có thể hiểu được logic của nhà lập hiến khi đặt Điều này gắn với Điều 36 quy định về quyền có nơi ở hợp pháp của công dân. Hai điều cùng liên quan đến nơi ở thì cần được đặt cạnh nhau. Song cách sắp xếp này đã làm đảo lộn trật tự logic của Chương II. Vì quyền có nhà ở theo Điều 36 lả một quyền thuộc nhóm kinh tế, xã hội, văn hóa trong khi đó quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở hợp pháp theo Điều 37 lại là một quyền thuộc nhóm dân sự, chính trị đã được sắp xếp ở đoạn trước.
Vì thế, để đảm bảo tính logic của Chương II, Điều 37 cần được “trả về” đúng vị trí nằm trong nhóm quyền về dân sự, chính trị. Vị trí của Điều 37 thực ra phải là Điều 24, ngay sạu quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở Điều 23. Việc đặt quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở hợp pháp sau quyền bất khả xâm phạm về đòi sống riêng tư mới đúng trật tự logic trong việc sắp xếp thứ tự các quyền.
Theo Luật sư Nguyễn Hồng Bách - ĐLS Hà Nam - Hiến pháp nên quy định theo hướng xác định nguyên tắc các quyền của công dân được tôn trọng, bảo vệ. Trên cơ sở đó, các luật sẽ được ban hành để cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản đã được Hiến pháp nghi nhận. Luật sư Lê Văn Đài - ĐLS Hà Nội - cũng đồng tình với quan điểm trên vì Hiến pháp là tập hợp các nguyên tắc chính trị căn bản chứ không phải là một đạo luật quy định chi tiết các quyền. Vì thế, quy định có tính khái quát mang tính nguyên tắc sẽ hợp lý hơn. Hơn nữa, quy định mang tính liệt kê thì dễ thiếu.
Trong trường hợp quy định có tính liệt kê thì Dự thảo cần bổ sung, liệt kê, quy định rõ quyền con người bao gồm những quyền gì, quyền công dân gồm những quyền cụ thể gì trước khi quy định thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền ấy. Với quy định như hiện nay của Dự thảo thì rất khó hiểu quyền con người là quyền gì, cụ thể gồm những quyền nào; quyền công dân là quyền gì, cụ thể gồm những quyền nào?.
Đối với các quy định cụ thể của Dự thảo, các luật sư tranh luận nhiều về “quyền được sống”. Theo đó, việc quy định “Mọi người có quyền sống” (Điều 21 Dự thảo) là một quy định mới nhưng không hợp lý vì quyền sống vốn là quyền tự nhiên gắn với mỗi con người. Quyền này tự nhiên có, không phải công nhận, nghi nhận hay ban phát mà có.
Vì thế, nếu quy định “Mọi người có quyền sống” khiến cho quyền này lại không giống quyền tự nhiên mà là quyền được ban phát. Hơn nữa, việc quy định quyền được sống sẽ dẫn đến xung đột với án tử hình; nếu quy định “Mọi người có quyền sống” thì lại phải thêm cụm từ “Trừ trường hợp bị tước đoạt quyền sống theo quy định của luật”.
Quyền của công dân được các luật sư quan tâm “chỉnh sửa” nhiều nhất là các quyền liên quan đến tố tụng. Theo ý kiến của các Đoàn luật sư được Liên đoàn Luật sư tổng hợp thì Khoản 3, Điều 32 của Dự thảo cần quy định cụ thể là: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, tự mình hoặc thông qua người khác nhờ luật sư bào chữa. Trường hợp nhờ luật sư bào chữa, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền giữ im lặng, không khai báo với cơ quan tiến hành tố tụng khi không có mặt luật sư”.
Theo Luật sư Trần Việt Hùng, lý do đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản này, thứ nhất, người bị bắt không có điều kiện nhờ luật sư bào chữa thì người khác nhờ luật sư bào chữa cho họ cũng được. Điều này nhằm tạo điều kiện thực tế hóa khả năng thực hiện quyền bào chữa của họ.
Thứ hai, quy định như trên để bảo đảm việc lấy lời khai, thu thập chứng cứ buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng được khách quan, có người thứ ba là luật sư chứng kiến việc lấy lời khai để đảm bảo lời khai khách quan, bảo đảm người cung cấp lời khai đó không bị ép cung, dụ cung hoặc bị dùng nhục hình, làm cho chứng cứ buộc tội đối với họ không khách quan, gây thiệt thòi cho bản thân họ.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài CPI tháng 3 giảm ở 2 thành phố lớn. Bài báo phản ánh: Trong tháng 3, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Hà Nội giảm 0,21% và TP Hồ Chí Minh giảm 0,29%. Đây là mức giảm mạnh nhất trong các tháng 3 kể từ năm 2008.
Cụ thể, theo số liệu Cục Thống kê Hà Nội vừa công bố, CPI tháng 3/2013 của Thủ đô đã giảm 0,21% so với tháng trước. Không tính vào CPI, giá vàng tại Hà Nội tháng 3 giảm 1,38% và USD tăng 0,42% so với tháng trước.
Còn theo Cục Thống kê TP Hồ Chí Minh, CPI tháng 3/2013 trên địa bàn TP giảm 0,29% so với tháng trước, sau khi tăng 1% trong tháng 2/2013; giá vàng giảm 2,94% và USD tăng 1,2%.
Cục trưởng Cục Thống kê TP Hà Nội Công Xuân Mùi cho biết sau khi CPI trong tháng 2 (tháng có Tết Nguyên đán) tăng cao, thì tháng này nhiều mặt hàng lấy lại mặt bằng giá cũ theo quy luật hàng năm. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (có quyền số lớn trong rổ hàng hóa), trong đó nhóm thực phẩm giảm mạnh, kéo chỉ số giá CPI giảm.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện quyết liệt chỉ đạo của Chính phủ về các biện pháp tổng thể kiềm chế lạm phát vào trong và sau dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ, tuy nhiên cần phải có sự đánh giá lại hiệu quả việc triển khai hoạt động bình ổn giá.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Luật cư trú quá siết chặt?. Bài báo phản ánh: Bắt buộc phải có hai điều kiện là có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục 2 năm trở lên, đối với trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân, tổ chức dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi) quy định "phải đảm bảo điều kiện về diện tích bình quân theo quy định của HĐND TP có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc công chứng và được người cho thuê, mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản"...Quy định này cũng đang gây nhiều tranh cãi.
Theo Bộ Công an, quy định về điều kiện diện tích tối thiểu khi đăng ký thường trú vào thành phố trực thuộc TƯ sẽ khắc phục tình trạng một chỗ ở có nhiều hộ cùng đăng ký thường trú nhưng thực tế họ không ở chỗ ở đó vì quá chật hẹp. Từ đó chính quyền địa phương xác định được chính xác số người đang cơ trú tại chỗ ở nơi họ đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú, trên cơ sở đó đưa ra được các chính sách về kinh tế xã hội phù hợp, sát với thực tế.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng quy định về diện tích tối thiểu là quá cứng nhắc và chưa dự liệu hết những tình huống trên thực tế. Đơn cử là trường hợp cả bố lẫn mẹ thuê được nhà ở hợp pháp, đủ điều kiện đăng ký thường trú khi đảm bảo diện tích nhà thuê tối thiểu, thỏa mãn điều kiện nhập khẩu theo quy định của Luật nhưng 2 đứa con thì tính sao? Chả lẽ cũng lại phải đủ diện tích theo quy định mới được nhập khẩu cùng cha mẹ?
Quá trình lấy ý kiến Dự án Luật, Công an Hà Nội cũng đề nghị bổ sung quy định trẻ em mới sinh đăng ký thường trú về với cha mẹ hoặc cha, hoặc mẹ có hộ khẩu thường trú tại thành phố đó.
Vấn đề này, Bộ Tư pháp cũng cho rằng "việc quy định diện tích tối thiểu là cần thiết, tuy nhiên, đối với trường hợp người ở nhờ và cho ở nhờ có quan hệ họ hàng, ruột thịt...thì dù nhà ở có chật chội, không đủ diện tích tối thiểu thì vẫn phải cho ở nhờ.” Vì vậy, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần cân nhắc quy định về diện tích tối thiểu cho phù hợp với các trường hợp.
Việc quy định về diện tích tối thiểu nhiều ý kiến đồng tình với Bộ Tư pháp, nhưng việc quy định cụ thể bao nhiêu nên giao HĐND TP quyết định, vì điều kiện mỗi thành phố là khác nhau.
Ngoài quy định phải đảm bảo điều kiện về diện tích bình quân theo quy định của HĐND TP , dự thảo Luật Cư trú sửa đổi còn quy định phải "có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc công chứng và được người cho thuê, mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản"….
Viện trưởng VKSND tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Bá Thuyền cho rằng "đặt ra điều kiện về diện tích tối thiểu lại yêu cầu phải có xác nhận là chưa ổn, rất dễ sinh tiêu cực. Dân ra chính quyền xin cái xác nhận mấy m2, chả biết thực tế ra sao có khi họ cũng xác nhận luôn", vì thế ông Thuyền cho rằng " điều kiện này không cần thiết".
Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án Quân sự T.Ư Trần Văn Độ cũng đặt câu hỏi: "Xác nhận cái gì? Công chứng cái gì? Nếu ví dụ xác nhận công chứng cái hợp đồng thuê nhà thì đó đã thể hiện ý chí của hai bên rồi thì sao lại còn phải có sự đồng ý bằng văn bản của người cho thuê nhà".
Sau khi phân tích, ông Độ cũng đúc rút: "Luật đặt ra nhiều điều kiện không cần thiết, không khả thi". Theo ông Độ, "Quản lý nhà nước nên theo dân để quản lý chứ không nên làm ngược lại là bắt dân theo. Luật sửa đổi không nên đi lùi lại Luật hiện hành. Để ban hành được Luật này thì những vấn đề gây tranh cãi phải được giải trình cho rõ".
Liên quan đến việc buộc phải xác nhận, nhiều ý kiến cho rằng đây là một thủ tục không có giá trị về mặt pháp lý và đặc biệt dễ làm phát sinh tiêu cực. Bởi lẽ với lượng công việc và biên chế cho chính quyền cơ sở hiện nay, rất khó để đến từng nhà để đo xem diện tích ở nhờ hay cho thuê đó có đảm bảo diện tích tối thiểu hay không. Vì không làm được nên rất dễ dẫn đến chuyện tiêu cực, nghĩa là cứ có yêu cầu dù không biết thực hư thế nào cũng cấp cho cái xác nhận.
Cùng với các điều kiện theo hướng siết chặt hơn như trên, Dự thảo Luật còn quy định "Nơi đăng ký thường trú phải là nơi đang tạm trú". Nhiều ý kiến cho rằng đây cũng là quy định thiếu tính khả thi vì rất nhiều trường hợp hộ khẩu một nơi nhưng thực tế người dân lại sống ở nơi khác, việc thay đổi chỗ ở diễn ra thường xuyên và muốn quản lý thì chỉ cần đăng ký tạm trú là đủ./.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Dự thảo Luật Đất đai còn nhiều quy định “xa“ thực tiễn. Bài báo phản ánh: Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhiều qui định mới, nhằm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay, đảm bảo cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai, phục vụ yêu cầu về sử dụng đất của nhân dân trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, vẫn còn một số qui định mang tính chung chung, chưa thật sự phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của cuộc sống.
Về qui định cấp qui hoạch, điều 35 của Dự thảo Luật qui định về qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đã bỏ thẩm quyền qui hoạch của cấp xã (chỉ còn có 3 cấp: cấp quốc gia, tỉnh và huyện), trong khi đó cấp xã là cấp cơ sở, trực tiếp theo dõi, quản lý đất đai, nếu bỏ thẩm quyền qui hoạch của cấp xã thì việc qui hoạch đất đai là rất khó thực hiện được trên thực tế. Đề nghị nên giữ nguyên như điều 25 của Luật Đất đai hiện hành, gồm có 4 cấp qui hoạch: cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Về thẩm quyền giao đất và thu hồi đất, điểm c, khoản 1, điều 57 của Dự thảo qui định: Chủ tịch UBND tỉnh có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Quy định như trên phù hợp với tính chất của việc giao đất là đối tượng người nước ngoài.
Tuy nhiên, tại điểm b, khoản 2 điều 65 về thu hồi đất lại qui định: Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất của người Việt Nam định ở nước ngoài thuộc đối tượng sở hữu nhà ở gắn liền quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Qui định trên có sự mâu thuẫn nhau, không phù hợp với nguyên tắc về giao đất và thu hồi đất. Theo nguyên tắc chung thì cơ quan, cá nhân nào có thẩm quyền giao đất thì cơ quan, cá nhân đó mới có thẩm quyền thu hồi đất. Đề nghị Dự thảo Luật Đất đai cần qui định lại cho phù hợp, nhằm thống nhất trong việc quản lý đất đai.
Về giao đất để sử dụng vào mục đích khác, khoản 2 điều 50 của Dự thảo qui định: “Trường hợp giao đất, cho thuê đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác thì ngoài căn cứ qui định tại khoản 1 điều này còn phải có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ”.
Đề nghị khoản 2 điều 50 của Dự thảo Luật tách ra và phân cấp như sau: “Trường hợp giao đất, cho thuê đất trồng lúa vào mục đích khác thì ngoài căn cứ qui định tại khoản 1 điều này phải có sự đồng ý của Chủ tịch UBND cấp tỉnh trên cơ sở phù hợp với qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương”; đối với “trường hợp giao đất, cho thuê đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác thì ngoài căn cứ qui định tại khoản 1 điều này còn phải có văn bản chấp thuận của “Bộ Tài nguyên và Môi trường”.
Phương án này sẽ là phù hợp hơn, vì Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quản lý nhà nước về đất đai trong toàn quốc, không nên qui định phải có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Về thu tiền thuê đất, điểm a, khoản 2, điều 55 của Dự thảo quy định “thu tiền thuê đất đối với tổ chức sử dụng đất xây dựng công trình sự nghiệp”. Đề nghị không nên qui định thu tiền công trình của đơn vị sự nghiệp, vì trong các tổ chức sự nghiệp nhiều đơn vị chỉ hoạt động công ích, phục vụ cho các mục tiêu xã hội, không có thu tiền.