Điểm tin báo chí sáng ngày 25 tháng 9 năm 2012

25/09/2012
Trong buổi sáng ngày 25/9/2012, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
             I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Trao quyết định nhập quốc tịch cho 457 công dân. Bài báo đưa tin: Ngày 24-9, UBND tỉnh Kon Tum cho biết thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, tỉnh này đã tiến hành trao quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam của Chủ tịch nước cho 457 công dân thuộc các xã Đăk Nông, Bờ Y và Đăk Dục (huyện Ngọc Hồi, Kon Tum).

Những người dân này sinh sống dọc biên giới huyện Ngọc Hồi (Kon Tum) giáp với Lào và Campuchia hơn 20 năm qua nhưng không có quốc tịch. Bà con rất phấn khởi trước việc được nhập quốc tịch và nguyện sẽ sống đoàn kết, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Khó trừ thu nhập của người phải thi hành án. Bài báo phản ánh: Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án (THA) là một trong những biện pháp cưỡng chế để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên trên thực tế, biện pháp này không được sử dụng thường xuyên ngay cả khi người phải THA chỉ có tài sản duy nhất là nguồn tiền lương, lương hưu hay trợ cấp hàng tháng.

Sau khi ly hôn với bà vợ người thành phố, ông N.V.S (ở Phủ Lý, Hà Nam) trở thành kẻ “vô gia cư” vì sau ly hôn, tài sản của nhà vợ, ông phải trả lại cho họ. Phần được chia là công sức đóng góp vào khối tài sản chung chỉ được ngót 100 triệu, thêm phần của 2 đứa con cũng là công chức tỉnh lẻ cho, ông phải vay thêm hơn 80 triệu đồng để mua một căn hộ dành cho người nghèo ở ven đô.

3 năm sau, số tiền vay chưa trả hết thì ông S. bị một trận ốm. Ông S. xin khất chủ nợ cho ông nợ thêm vài năm nữa nhưng người này nhất định không nghe. Thương thảo không được cuối cùng bà này kiện ông ra Tòa án. Kết cục đương nhiên theo án tuyên ông phải trả cho bà nọ số tiền còn lại là hơn 20 triệu đồng.

Có lẽ xét thấy đây là số tiền không lớn nên cơ quan THA quận không nỡ bán ngôi nhà ông đang ở (mà cũng không thể bán khi tài sản này mang tên đứa con trai đầu của ông) nên sau quá trình xác minh, THA quyết định trừ vào khoản lương hưu của ông S và được ông chấp thuận.

Tuy nhiên, khi đến UBND phường nơi ông cư trú thì cán bộ THA bị UB phường làm khó với lý do… chưa có tiền lệ việc trừ lương hưu. Hơn nữa ông thuộc thành phần gia đình có công với cách mạng, là người già yếu nên phường đề nghị THA không trừ lương của ông S.

Năm lần bảy lượt thuyết phục, gần nửa năm sau phường mới ưng thuận cho THA được trừ số tiền của ông S. Tuy nhiên, vì số tiền lương của ông quá ít, nên tính ra số tiền ông nợ phải mất đến … hơn 3 năm mới thi hành xong.

Trường hợp của ông S. xem ra còn có vẻ “thuận lợi” vì rốt cục UB phường cũng hợp tác với THA. Tuy nhiên nhiều trường hợp khác, cơ quan giữ tiền của người lao động (ví dụ chủ sở dụng lao động, bảo hiểm xã hội…) kiên quyết từ chối cơ quan THA vì lý do bảo vệ cho người lao động của mình, hoặc đơn giản chỉ vì ... chưa có tiền lệ như trường hợp UBND phường nói trên. Đó là chưa kể nhiều người khi đang THA thì chuyển chỗ ở, chuyển nơi công tác… khiến THA lại mất thời gian thông báo đến nơi mới và các thủ tục lại…bắt đầu từ đầu.

Mặc dù Luật THADS quy định cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động, Bảo hiểm xã hội nơi người phải thi hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp và các thu nhập hợp pháp khác có trách nhiệm thực hiện theo quy định về việc trừ vào thu nhập của người phải THA, tuy nhiên nhiều cơ quan THA cho biết, ngoài khó khăn vì nhiều cơ quan không chấp hành như trên thì một nguyên nhân khác khiến việc này khó thực hiện là vì pháp luật chưa có những hướng dẫn cụ thể về hồ sơ khấu trừ hay chi phí …

Để khắc phục tình trạng nói trên, nhiều địa phương đã có những sáng kiến để gắn kết trách nhiệm của các ngành trong THA. Ví dụ Hà Tĩnh đưa bảo hiểm xã hội, ngân hàng, kho bạc... vào là thành viên ban chỉ đạo THA, một số địa phương ban hành quy chế phối hợp, tăng cường vai trò của Ban chỉ đạo THA…

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là tự bản thân các ngành phải ý thức đầy đủ về trách nhiệm trong công tác THADS đã được pháp luật quy định. Đối với những trường hợp cố tình cản trở quá trình THA thì dù là cá nhân hay tổ chức cũng phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình, thậm chí có thể bị truy tố theo quy định của Bộ luật hình sự.

3. Báo Tiền phong Online có bài Điêu đứng vì ủy quyền cho kẻ lừa đảo. Bài báo phản ánh: Hàng trăm hộ dân ở Hà Nội đang mất ăn mất ngủ, có nguy cơ mất trắng nhà cửa vì trót giao sổ đỏ cho những giám đốc doanh nghiệp “ma”. Vì cần một ít vốn để đầu tư sản xuất, những hộ dân này không ngờ mình đã trao niềm tin cho kẻ lừa đảo.

Những ngày này, 15 hộ dân ở Yên Lạc (xã Cần Kiệm, Thạch Thất, Hà Nội) cũng như đang ngồi trên lửa. Họ chỉ biết mình bị lừa khi có cán bộ thi hành án tìm đến yêu cầu kê biên, phát mại mảnh đất và ngôi nhà họ đang ở.

15 hộ dân, chủ yếu là anh em họ hàng với nhau có nhu cầu vay ít vốn để đầu tư sản xuất chăn nuôi.

Giữa năm 2008, nắm bắt được nhu cầu này, một phụ nữ có tên là Hoa Thị Mai xưng là Giám đốc Cty TNHH Thương mại và dịch vụ tổng hợp điện máy Thanh An tìm đến nhà từng người nói sẽ vay vốn giúp với lãi suất thấp. Mai còn nói nếu giao ngay sổ đỏ và ký vào một số giấy tờ sẽ nhận được tiền sớm.

“Đùng một cái cán bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam, chi nhánh Ba Đình cùng cán bộ thi hành án đến đòi phát mại nhà dân. Vừa rồi tòa xử cũng chẳng ngó ngàng đến quyền lợi của người dân. 15 hộ dân đã làm đơn kiến nghị lên tòa án cấp trên”- ông Kiều Văn Lương, Chủ tịch UBND xã Cần Kiệm nói.

Được biết, hộ vay ít 20 triệu, hộ vay nhiều 30 triệu đồng, tổng cộng 15 hộ vay tiền từ Mai 350 triệu đồng. Ông Kiều Văn Thứ có mảnh đất khoảng 400m2 cũng giao sổ đỏ cho Mai để vay 20 triệu đồng.

Ông Thứ và 14 hộ dân không hề biết, sau khi có sổ đỏ của họ (sổ nhiều nhất đến 1.000m2 đất), Mai đã sang tên Cty của mình, đem đi thế chấp vay tiền ngân hàng.

Quá hạn, ngân hàng khởi kiện doanh nghiệp của Mai ra tòa đòi nợ. Tòa xử phần thắng thuộc về ngân hàng, 15 hộ dân không hề có bất cứ một quyền lợi nào tại phiên tòa. Mới đây, các hộ dân mới té ngửa khi biết cả tiền gốc và lãi Mai vay ngân hàng lên đến 4,5 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Hùng Sơn, Cục phó Thi hành án Hà Nội, người trực tiếp đi thi hành án đối với 15 hộ trên, cho biết: Tình trạng người dân giao sổ đỏ, trót ký vào những loại hợp đồng có công chứng (hợp đồng ủy quyền, hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng chuyển nhượng…) để nhờ vay ít vốn đầu tư làm ăn diễn ra ở nhiều vùng ngoại thành và nông thôn của Hà Nội, từ nhiều năm nay.

Thống kê sơ bộ, hiện số vụ phải thi hành án đã lên tới hàng trăm trường hợp, đồng nghĩa hàng trăm hộ dân có nguy cơ mất nhà khi ngân hàng kê biên, phát mại.

Theo ông Sơn, trên địa bàn Hà Nội hình thành một số nhóm người dưới danh nghĩa là giám đốc các doanh nghiệp chuyên đi dụ dỗ người dân giao sổ đỏ.

“Người dân đã mất cảnh giác khi giao sổ đỏ, ký một số loại hợp đồng, đồng nghĩa với việc đã giao toàn bộ tài sản của mình cho người khác toàn quyền quyết định. Có những trường hợp biết rõ là có dấu hiệu lừa đảo, nhưng cũng mới chỉ xử lý được về mặt dân sự”- ông Sơn nói.

Ông Trịnh Cao Sơn, Chấp hành viên Cục Thi hành án Hà Nội (người trực tiếp thi hành án vụ nhà bà Diệp) nói thêm: “Qua việc thế chấp nhà bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp cho thấy cần phải làm rõ trách nhiệm của cán bộ ngân hàng. Sao cán bộ ngân hàng lại nhận thế chấp cả điện thờ? Sau này bán cho ai, ai dám mua?".

Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp cho biết thêm, trong khi sổ đỏ của căn nhà đã mang đi thế chấp, không có một cán bộ ngân hàng nào đến gặp bà để thẩm định, xác minh tài sản.

Có lần cán bộ ngân hàng đến nhà yêu cầu bà ký vào biên bản định giá thế chấp tài sản, bà không ký. Nhưng không hiểu sao, khi ra tòa ngân hàng vẫn có biên bản kia cùng chữ ký của bà. Bà Diệp nghi ngờ liệu có sự câu kết giữa Liên và cán bộ ngân hàng trong vụ việc?

4. Báo Dân trí có bài Cụ già bị cắt thận "nín thở" chờ phán quyết công tâm của TAND Tối cao. Bài báo phản ánh: Sau văn bản báo cáo gửi Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp) và báo điện tử Dân trí, ngày 17/9/2012, Cục THADS Quảng Ninh tiếp tục có văn bản đề nghị Chánh án TAND Tối cao ra phán quyết để thực thi bản án cho cụ già bị cắt thận Phạm Ngọc Gia.

Văn bản của Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Quảng Ninh nêu rõ: Cục THADS tỉnh Quảng Ninh đang chỉ đạo Chi cục THADS TP. Hạ Long thi hành Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 01/QĐ-CCTHA ngày 24/10/2011 đối với bản án số 26/2011/DS-PT ngày 26/9/2011 của TAND tỉnh Quảng Ninh đối với: Người bị thi hành án là anh Phạm Ngọc Cường và chị Phạm Thị Liên, cùng trú tại tổ 20Đ, phường Cao Xanh, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Người được thi hành án là ông Phạm Ngọc Gia, trú tại tổ 25, khu 2B, phường Cao Xanh, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Khoản thi hành: buộc anh Phạm Ngọc Cường và chị Phạm Thị Liên được quyền sở hữu ngôi nhà 4,5 trên diện tích 55,9m2 đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Phạm Ngọc Cường tại tại tổ 20Đ khu 2 A, phường Cao Xanh, TP. Hạ Long trả lại cho ông Phạm Ngọc Gia. Ông Phạm Ngọc Gia phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký lại quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

Quá trình tổ chức thi hành án, Chi cục THADS TP. Hạ Long đã nhiều lần đôn đốc việc thi hành án, đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương cùng các ban ngành đoàn thể động viên, giáo dục thuyết phục anh Cường, chị Liên tự nguyện thi hành bản án nhưng anh Cường, chị Liên không tự nguyện thi hành với lý do bản án xét xử không khách quan, sai sự thật và liên tục có đơn khiếu nại gửi tới Viên KSNDTC và TAND Tối cao.

Ngày 21/8/2012, Chi cục THADS TP. Hạ Long nhận được công văn số 26/TANDTC-DS ngày 17/8/2012 của TAND Tối cao về yêu cầu hoãn thi hành án. Chi cục THADS TP. Hạ Long đã ra quyết định số 38/QĐ – CCTHA về việc hoãn thi hành án, thời hạn hoãn 3 tháng kể từ ngày 21/8/2012.

Sau khi hoãn thi hành án, ông Phạm Ngọc Gia liên tục có đơn khiếu nại gửi TAND Tối cao và các ngành. Ngày 10/9/2012, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh nhận được văn bản số 1800/TCTHADS-GQKN của Tổng Cục THADS (Bộ Tư Pháp) và văn bản số 103/BBĐ – 2012 của báo điện tử Dân trí về việc chuyển đơn của ông Phạm Ngọc Gia, địa chỉ tổ 25, khu 2B, phường Cao Xanh, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, “Đơn kêu cứu khẩn cấp về nội dung trong văn bản số 26/TANDTC-DS ngày 17/8/2012 của TAND Tối cao và mong muốn được thi hành bản án số 26/2011/DS-PT ngày 26/9/2011 của TAND tỉnh Quảng Ninh”.

Để có cơ sở tiếp tục chỉ đạo Chi cục THADS TP. Hạ Long thi hành dứt điểm bản án, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh đề nghị Chánh án TAND Tối cao sớm có phán quyết đối với vụ Phạm Ngọc Cường và Phạm Thị Liên”.

5. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Vụ làm giả giấy chứng tử để chiếm đoạt nhà thừa kế: Công an quận 6 xác định có dấu hiệu hình sự. Bài báo phản ánh: Báo SGGP số ra ngày 19-4-2012 có thông tin về vụ bà Nguyễn Thị Ngọc (hiện ngụ tại số 70 Tân Hòa Đông, phường 14, quận 6, TPHCM) tố cáo con ruột là ông Nguyễn Văn Tư và chị ruột Nguyễn Thị Liễu làm giả giấy chứng tử của bà để chiếm đoạt 3 căn nhà tài sản thừa kế trên đường Tân Hòa Đông. Mới đây, Công an quận 6 có văn bản cho biết đã xác định các đối tượng liên quan có dấu hiệu của tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Điều 267 Bộ luật Hình sự.

Theo xác minh của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận 6, vào tháng 10-2010, bà Nguyễn Thị Liễu và ông Nguyễn Văn Tư đến Phòng Công chứng số 7 lập văn bản đề nghị nhận di sản thừa kế đối với 3 căn nhà số 78/32, 78/36 và 78/40 Tân Hòa Đông, phường 14, quận 6.

Bà Liễu và ông Tư khai tên những người chết để lại di sản thừa kế là vợ chồng Nguyễn Văn Hóa – Nguyễn Thị Thu (cha mẹ ruột của bà Liễu) và bà Nguyễn Thị Ngọc (em ruột bà Liễu và là mẹ ruột của ông Tư). Trong hồ sơ do hai người nộp tại Phòng Công chứng số 7, có giấy chứng tử mang tên bà Nguyễn Thị Ngọc, chết ngày 26-2-1992.

Kết quả xác minh của Công an quận 6 cho thấy đó là giấy chứng tử giả. Trong hồ sơ còn có “Tờ tường trình về quan hệ nhân thân” lập ngày 9-9-2010, trong đó có nội dung khai bà Ngọc đã chết từ năm 1992, được UBND phường 12 quận 6 xác nhận chữ ký của người đứng khai là ông Nguyễn Văn Tư. Thế nhưng, tại cơ quan công an, ông Tư cho rằng mọi việc đều do bà Liễu thuê dịch vụ làm thủ tục khai nhận thừa kế, ông không biết gì cả, không làm giấy chứng tử giả cho mẹ ruột và cũng không đứng kê khai “Tờ tường trình quan hệ nhân thân” nêu trên! Bà Liễu cũng khai rằng mình chỉ thuê dịch vụ làm thủ tục, không biết họ làm những gì và bà cũng không nhớ đã thuê nơi nào làm (!?).

Dù hai đối tượng không thừa nhận nhưng căn cứ vào kết quả xác minh và các tài liệu thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận 6 khẳng định: Hành vi của bà Nguyễn Thị Liễu và ông Nguyễn Văn Tư có dấu hiệu của tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Nơi đây sẽ tiếp tục điều tra, làm rõ mức độ phạm tội của hai đối tượng nêu trên để xử lý theo quy định của pháp luật.

6. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Cháu nội mượn "sổ đỏ" của bà rồi sang tên chiếm đoạt. Bài báo phản ánh: Cụ Nguyễn Thị Tam (SN 1930) cùng chồng là cụ Nguyễn Văn Thọ (SN 1923) thường trú tại phường Khai Quang, TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc không phải là ngoại lệ. Năm nay đã ngoài 80, tuổi đó đáng ra các cụ phải được vui hưởng tuổi già nhưng bất đắc dĩ vẫn phải lê những bước chân nặng nề đến cơ quan công quyền cũng chỉ vì chuyện đất đai “sổ đỏ”. Chua chát hơn khi hai cụ phải ủy quyền cho con gái đi kiện chính đứa cháu nội của mình.

Tiếp xúc với chúng tôi cụ Tam kể: “Năm 2010 gia đình tôi được nhận tiền bồi thường đất nên xây thêm nhà bếp. Vì thấy cháu nội tên Nguyễn Văn Quang biết làm nghề xây dựng nên đã bảo cháu để tạo thêm việc làm cho cháu. Trong thời gian làm nhà bếp cho tôi Quang đã hỏi tôi việc cho mượn “sổ đỏ” và sổ hộ khẩu. Tôi không nghĩ đứa cháu tôi lại có âm mưu để chiếm thửa đất nên đã không ngần ngại đưa cho nó mượn”.

Chẳng ai ngờ được rằng đứa cháu nội của cụ Tam trong thời gian cầm “sổ đỏ” đã mang đi sang tên nhằm chiếm hữu thửa đất của bà nội, người đã sinh ra bố đẻ của mình. Thấm thoát khoảng một năm khi gia đình có việc cần sử dụng đến cái “sổ đỏ” thì cụ Nguyễn Thị Tam mới hỏi đứa cháu nội để lấy lại “sổ đỏ”. Không biết chữ nhưng linh cảm của cụ  thấy cái tờ giấy cháu đưa cho sao khác giấy trước đó.

Sau khi cụ Tam nhờ người ta xem cho và mới biết mình đang là người  phải “ở nhờ” vì "sổ đỏ" đất của hai cụ đã bị đứa cháu sang tên nhằm chiếm đoạt: “Tôi già cả rồi chết cũng chẳng mang theo tiền bạc, đất đai đi được nhưng tôi không đồng ý với hành vi của nó vì đất đai gia tiên để lại, nếu cho thì tôi cũng không thể cho nó cả mà phải chia đều cho các con tôi chứ không thể giao cho nó cả mấy trăm mét đất. Như vậy là không công bằng”, bà cụ tâm sự.

Cũng chỉ vì tin tưởng đứa cháu vậy nên đến giờ này cụ Nguyễn Thị Tam đã vô tình đẩy mình vào hoàn cảnh trớ trêu đang có đất rộng rãi nay lại thành tay trắng không có một thước đất cắm dùi vì có 397m2 đất thì đã bị đứa cháu mang đi “phù phép” để biến thành của nó từ cách đó gần 1 năm.

Ngày 2/11/2011 gia đình cụ Nguyễn Thị Tam đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân TP Vĩnh Yên đề nghị Tòa án xem xét hủy hợp đồng cho tặng quyền sử dụng đất ngày 11/5/2010 giữa cụ Nguyễn Thị Tam cùng chồng là cụ Nguyễn Văn Thọ và anh Nguyễn Văn Quang do Văn phòng công chứng Vĩnh Phú lập và số công chứng là 751/2010, quyển sổ 02 TP/CC-SCC/HĐTC.

7. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Định danh công dân bằng... số?. Bài báo phản ánh: Cùng với cấp sổ hộ tịch cá nhân, Dự án Luật Hộ tịch đề xuất xây dựng số định danh công dân. Số định danh này được ghi vào Sổ bộ hộ tịch, Sổ hộ tịch cá nhân và giấy tờ khác của cá nhân theo quy định của pháp luật. Cũng như sổ hộ tịch, để tránh xáo trộn trong đời sống, số định danh chỉ được cấp khi đăng ký khai sinh theo luật mới. 

Chủ tịch Hội đồng dân tộc K’So Phước ủng hộ Chính phủ trong việc xây dựng số định danh công dân. “Đằng sau số định danh đó là hệ thống dữ liệu của một cá nhân bằng hồ sơ gốc lưu tại cơ quan nhà nước, chứ không phải lưu trong sổ. Công dân dùng số định danh này liên hệ trong cuộc sống, các cơ quan tổ chức dùng số định danh đó để biết được công dân đó như thế nào thì tốt quá. Có số định danh người dân bớt đi nhiều loại giấy tờ” - ông Phước nói.

Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc phân vân: Hiện nay, ngành Công an cũng đã triển khai việc cấp mã số công dân, có thêm số định danh công dân có nên không thì phải tính kỹ.

Theo Ủy ban Pháp luật Quốc hội, trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như hiện nay thì việc cấp số định danh công dân là cần thiết, giúp xác định, truy nguyên danh tính công dân được nhanh chóng, chính xác, bảo đảm cho việc quản lý hộ tịch, quản lý xã hội được chặt chẽ phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của các cơ quan, các ngành, các cấp. 

Từ thực tế hiện nay, ở nước ta, người dân được cấp quá nhiều giấy tờ, trong đó có các mã số khác nhau, như số Chứng minh nhân dân, số Hộ chiếu, số Giấy phép lái xe, số thẻ Bảo hiểm y tế, số sổ Bảo hiểm xã hội, mã số thuế thu nhập cá nhân gây nhiều phiền phức… Tuy nhiên, Ủy ban Pháp luật đề nghị làm rõ nội hàm của số định danh công dân thế nào, bao gồm những nội dung gì?. Có bảo đảm được quyền bí mật đời tư không…?.

Làm rõ các vấn đề này để tiến tới mỗi người dân chỉ có một mã số quản lý duy nhất dùng chung cho các giấy tờ cá nhân do cơ quan nhà nước cấp, nếu không thì sẽ thêm tốn kém và phiền hà cho người dân. 

Riêng vấn đề dự thảo Luật quy định số định danh công dân chỉ được cấp cho công dân Việt Nam "sinh ra kể từ ngày Luật này có hiệu lực", nghĩa là đối với hơn 87 triệu người dân sinh ra trước đó thì không được cấp số định danh và vẫn được quản lý theo cơ chế cũ, có ý kiến băn khoăn nếu như vậy sẽ không phát huy được tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý. Do đó, có thể xây dựng một Đề án cụ thể để làm rõ hơn và đảm bảo tính khả thi của quy định này.

            8. Báo Hà Nội mới Online có bài Đồng lòng để Giảm tải chứng thực. Bài báo phản ánh: Việc photocopy, sao y bản chính đang bị lạm dụng trong tất cả các thủ tục hành chính đã gây không ít phiền hà cho công dân và quá tải lượng công việc cho cán bộ cơ quan hành chính nhà nước.

Để hoàn thiện bộ hồ sơ tuyển dụng công chức, chị Nguyễn Việt Hà (phường Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trưng) phải ra UBND phường sao y bản chính nhiều loại giấy tờ (bằng tốt nghiệp, bảng điểm, hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân (CMND), hợp đồng lao động, các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ…). Do cơ quan yêu cầu nộp 2 bộ nên chị Hà đã yêu cầu chứng thực bản sao mỗi loại 5 bản, riêng CMND và hộ khẩu làm tới 10 bản để… dùng dần. Chiều hôm đó lại có khá đông người đến chứng thực tại UBND phường Quỳnh Lôi nên chị cán bộ "một cửa" phải luôn tay luôn mắt đối chiếu giấy tờ, sang phòng lãnh đạo xin chữ ký rồi lại quay về đóng dấu... Cán bộ "một cửa" lĩnh vực tư pháp làm việc không ngơi tay, đồng thời lãnh đạo đơn vị cũng "mỏi tay" vì ký chứng thực là tình trạng chung của nhiều đơn vị kể từ khi việc chứng thực được thực hiện tại
cấp phường, xã theo Nghị định 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký có hiệu lực.

Mới đây, Sở Tư pháp đã có công văn số 1064/STP-HCTP ngày 5-6-2012 về việc "Tăng cường trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ, tài liệu". Theo đó, ở một số lĩnh vực (hồ sơ tuyển sinh, tuyển dụng, tuyển lao động, giải quyết các chính sách, hợp đồng giao dịch…), các quận, huyện, thị xã sẽ thực hiện việc đối chiếu hồ sơ bản chính với bản sao các hồ sơ, giấy tờ, tài liệu mà không thực hiện chứng thực. Khi cần lưu bản sao, cán bộ sẽ đối chiếu rồi trả lại bản chính. Huyện Từ Liêm là một trong những đơn vị thực hiện khá nghiêm túc điều này. Cùng với việc thực hiện đúng nội dung yêu cầu của Sở Tư pháp, huyện tập trung rà soát các văn bản đã ban hành để sửa đổi, bãi bỏ các quy định không còn phù hợp. Theo bà Nguyễn Thị Thanh Xuân, Trưởng phòng Tư pháp huyện Từ Liêm: "Cách thực hiện này đã giúp bảo đảm hoạt động chứng thực theo đúng quy định của pháp luật; giảm tải áp lực công việc cho cán bộ và đặc biệt là công dân sẽ đỡ tốn kém về thời gian và tiền của". Hiện nhiều quận, huyện cũng đã thực hiện theo hướng dẫn của Sở Tư pháp. Tuy nhiên, nhiều công dân chưa biết quy định mới và vẫn quen thực hiện theo cách cũ tức là phải chứng thực tất cả các giấy tờ.

Trong khoản 2, điều 6 của Nghị định 79/2007/NĐ-CP đã quy định rõ đối với trường hợp không chứng thực: "Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao không có chứng thực có quyền yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. Người đối chiếu phải ký xác nhận vào bản sao và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính". Như vậy, hướng dẫn tại công văn số 1064/STP-HCTP đã cho thấy những ưu điểm và hoàn toàn phù hợp với quy định hiện hành. Hơn nữa, đó cũng là thực hiện việc giao quyền và trách nhiệm để cán bộ làm tốt công việc, bảo đảm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay tại nhiều cơ quan, tổ chức vẫn yêu cầu phải nộp bản có chứng thực trong các hồ sơ tuyển sinh, tuyển dụng, tuyển lao động, giải quyết các chính sách hợp đồng giao dịch…

Cải cách thủ tục sẽ tạo thuận lợi cho tổ chức, công dân, song, nếu cải cách không đồng bộ thì sẽ khiến cả cán bộ và người dân cùng lúng túng khi thực hiện. Do đó, để việc cắt giảm chứng thực được triển khai có hiệu quả trên diện rộng thì cần tăng cường công tác tuyên truyền cho cán bộ, nhân dân để có sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất. Bên cạnh đó, Sở Tư pháp cần đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện tại các đơn vị, rút kinh nghiệm, báo cáo các cơ quan chức năng nghiên cứu đưa vào áp dụng rộng rãi để tạo môi trường thủ tục thông thoáng, đơn giản, dễ thực hiện.

 



File đính kèm