Điểm tin báo chí sáng ngày 20 tháng 9 năm 2012

20/09/2012
Trong buổi sáng ngày 20/9/2012, một số báo đã có bài phản ánh vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

     I- THÔNG TIN NỔI BẬT

1. Báo điện tử Chính phủ đưa tin Khởi công Trung tâm Vũ trụ-Bước ngoặt của ngành khoa học không gian VN. Ngày 19/9, dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã chính thức được khởi công tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội. Đây là bước ngoặt của ngành khoa học nghiên cứu không gian của Việt Nam. Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan gửi lẵng hoa; Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân gửi thư chúc mừng.

Là dự án đầu tư trọng điểm, tạo cơ sở nòng cốt để triển khai thực hiện các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, ứng dụng và  hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ của đất nước, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu của chiến lược và kế hoạch phát triển công nghệ vũ trụ của Việt Nam nhằm thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng, đưa công nghệ vũ trụ phục vụ thiết thực và có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

2. Báo Nhân dân điện tử đưa tin Ủy ban Thường vụ Quốc hội kết thúc phiên họp thứ 11. Từ ngày 12 đến 19-9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII đã họp phiên thứ 11 tại Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Tham dự phiên họp có Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan; đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục cho ý kiến về việc chuẩn bị kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản thống nhất về dự kiến chương trình kỳ họp thứ tư của Quốc hội khóa XIII và yêu cầu Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội phối hợp các cơ quan hữu quan khẩn trương triển khai các công việc chuẩn bị để kỳ họp Quốc hội diễn ra đúng dự kiến và đạt kết quả tốt.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về hai dự án luật trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII, đó là Luật Xuất bản (sửa đổi);  Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức hữu quan tiếp tục hoàn chỉnh các báo cáo tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo các dự án luật nói trên gửi các vị đại biểu Quốc hội theo quy định. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã cho ý kiến về năm dự án luật khác, gồm: dự án Luật Hộ tịch; dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); dự án Luật Ðất đai (sửa đổi); dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Cũng tại phiên họp này Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về hai báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân với các quyết định hành chính về đất đai; việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời cho ý kiến về các báo cáo của Chính phủ về: Việc thi hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2012; công tác phòng, chống tham nhũng năm 2012. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan tích cực khẩn trương tiếp thu, hoàn chỉnh các báo cáo để kịp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về Ðề án "Quy trình, thủ tục, cách thức thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn". Ðây là đề án được xây dựng nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI của Ðảng; đồng thời, tham mưu, giúp Quốc hội, Hội đồng Nhân dân tìm ra các giải pháp khắc phục những điểm hạn chế, bất cập trong quy trình bỏ phiếu tín nhiệm, góp phần đưa các quy định của Hiến pháp và luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn đi vào cuộc sống. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Ban Chỉ đạo xây dựng Ðề án khẩn trương tiếp thu, hoàn chỉnh các dự thảo Ðề án, Nghị quyết báo cáo Bộ Chính trị.

Cũng tại phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về  dự kiến kế hoạch kiểm toán năm 2013.

3. Báo điện tử Sài Gòn tiếp thị Media có bài Thực hiện luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: Thường vụ Quốc hội chưa hài lòng với Chính phủ. Bài báo đưa tin: Thảo luận về báo cáo thực hiện luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại ủy ban thường vụ Quốc hội sáng 19.9, nhiều ủy viên thường vụ Quốc hội bày tỏ sự chưa hài lòng với báo cáo khá lạc quan của Chính phủ.

Báo cáo thực hiện luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của Chính phủ do bộ Tài chính trình bày cho hay, trong 6 tháng đầu năm 2012, thông qua công tác thẩm tra, phê duyệt quyết toán 9.727 dự án hoàn thành trong cả nước, đã cắt giảm các khoản chi phí sai tiêu chuẩn, định mức, chế độ, góp phần tiết kiệm cho ngân sách hơn 800 tỉ đồng. Cũng trong 6 tháng đầu năm, các cơ quan thanh tra nhà nước đã triển khai thực hiện trên 6.035 cuộc thanh tra kinh tế xã hội và thanh tra hành chính đã phát hiện, kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước trên 3.529 tỉ đồng. Đồng thời, đã có kiến nghị xử lý về hành chính đối với 425 tập thể và 697 cá nhân; chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra 22 vụ, liên quan đến 35 người.

Tuy nhiên, chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện thắc thắc: con số kiến nghị thu hồi 3.500 tỉ chiếm bao nhiêu phần trăm so với thất thoát (thật)? Số vụ chuyển cơ quan điều tra được xử lý ra sao, chuyển có đúng không? Theo ông Hiện, báo cáo “nếu không có kết quả phản hồi thì chưa đầy đủ”

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường Phan Xuân Dũng nói thẳng: "Báo cáo Chính phủ chưa nói đến và chưa phân tích yếu kém, chủ yếu là kết quả đạt được, trong khi báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính ngân sách thì ngược lại: chủ yếu phân tích tồn tại và đề xuất giải pháp khắc phục". Trong khi đó, chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu cảm nhận, với các lĩnh vực “nhạy cảm” như đầu tư công, đất đai thì báo cáo chưa cụ thể, Chính phủ nên có báo cáo sâu sắc hơn.

Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu yêu cầu Chính phủ phải hoàn thiện báo cáo theo hướng: bám sát luật Thực hiện tiết kiệm chống lãng phí, đồng thời có phương án xử lí với vi phạm. “Hay trong lĩnh vực quản lí tài sản công, vốn nhà nước, báo cáo có đề cập, nhưng phải có đánh giá toàn diện, có số liệu so sánh với năm 2011 để thấy được và chưa được”, phó chủ tịch Quốc hội ví dụ.

Đi vào các nội dung cụ thể, chủ nhiệm Hiện bức xúc: “Trong đầu tư công, tất cả các khâu đều có cơ hội tham nhũng, người có quyền hạn ở các khâu từ đề xuất, duyệt quy hoạch, triển khai thực hiện đều có thể tham nhũng. Đây là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng”.

Còn trong lĩnh vực khoáng sản, theo ông Hiện: lãng phí diễn ra ở từ xã đến tỉnh, “ở đâu cũng mong tìm được khoáng sản để tận thu, tận diệt, trong khi quản lí cực kì yếu. Dù đã phân cấp nhưng thực hiện rất yếu kém, lộn xộn”, ông Hiện nói.

Chủ nhiệm hội đồng Dân tộc K’sor Phước thì cho rằng, tình hình quản lí thu chi “hai mươi năm qua chưa khắc phục được”. Ông Phước dẫn chứng, hồi ông làm ở địa phương 20 năm trước, tình hình thanh quyết toán đã có tình trạng công trình làm xong chưa thanh toán được, nhưng nay báo cáo cũng nêu, chưa dứt điểm được”.

Còn phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn thì bức xúc chuyện lãng phí thời gian. "Đây là lãng phí phổ biến, nhất là trong bộ máy nhà nước, hội họp nhiều mà chất lượng ít, công việc trì trệ, luật đề ra không làm được thì dừng lại, luật mới ban ra đã phải sửa đổi”, ông Sơn nói.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo điện tử Chính phủ đưa tin Tổng kết thi hành Bộ luật dân sự 2005. Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Kế hoạch tổng kết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005. Mục tiêu tổng kết nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 qua 7 năm thi hành, như làm rõ sự tác động của Bộ luật Dân sự tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội đến các quan hệ dân sự và quy định của Bộ luật dân sự; mối liên hệ giữa Bộ luật dân sự với các luật, pháp lệnh, điều ước quốc tế có liên quan; những thành công, cũng như những hạn chế trong quy định và tổ chức thực hiện Bộ luật dân sự; xác định những vấn đề phát sinh trong thực tiễn cần được pháp luật điều chỉnh...

Thủ tướng yêu cầu việc tổng kết cần được thực hiện nghiêm túc, toàn diện ở các Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nội dung tổng kết phải thiết thực, phản ánh đúng thực tế, có đánh giá, tránh làm theo kiểu thống kê, báo cáo thành tích.

Bộ luật dân sự năm 2005 cần được tổng kết một cách toàn diện trong giai đoạn từ khi Bộ luật có hiệu lực pháp luật (ngày 1/1/2006) đến ngày 30/6/2012.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tòa tuyên không rõ, chấp hành viên “mướt mồ hôi”. Bài báo phản ánh: Tháng 11-2001, TAND quận 4 (TP.HCM) mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ Lương Văn Thanh phạm tội cướp giật tài sản.

Theo hồ sơ, chiều 13-10-2001, Thanh phát hiện một phụ nữ đi xe đạp có đeo một sợi dây chuyền vàng nên đuổi theo giật lấy. Người dân phát hiện nên vây bắt được Thanh. Tại phiên tòa, Thanh nhận tội và bị tòa phạt một năm tù.

Vật chứng của vụ án được xác định là sợi dây chuyền trọng lượng hai phân bảy ly đã được niêm phong và tạm gửi ở Kho bạc Nhà nước TP.HCM. Trong quá trình điều tra, cơ quan Công an quận 4 đã ra thông báo tìm người bị hại nhưng không tìm được. Vì vậy, sợi dây chuyền sẽ được tịch thu để sung công quỹ Nhà nước với lý do không xác định được chủ sở hữu. Mặc dù, trong phần nhận định tòa đã xác định sợi dây chuyền vàng là vật chứng của vụ án nhưng trong phần quyết định tòa lại tuyên “tịch thu sung quỹ Nhà nước một gói niêm phong đang tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước TP.HCM”.

Tháng 12-2002, cơ quan Thi hành án quận 4 (nay là Chi cục Thi hành án dân sự quận 4) ra quyết định thi hành bản án. Tuy nhiên, cho đến nay là gần 10 năm cơ quan thi hành án mới được giao lại gói niêm phong nói trên.

Sau khi nhận, ngày 18-9, Chi cục Thi hành án dân sự quận 4 giao lại chiếc hộp cho Phòng Tài chính Kế hoạch của quận nhưng vị cán bộ này không nhận vì cho rằng không biết trong chiếc hộp này có phải là sợi dây chuyền vàng hay không.

Trước khó khăn tiếp theo này, chấp hành viên buộc phải lên kế hoạch mời những cơ quan chức năng khác như VKS, cán bộ Phòng Tài Chính Kế hoạch và một số người làm chứng đến công ty vàng bạc của Nhà nước để mở niêm phong nhằm xác định vật trong gói niêm phong là gì...

Một chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự quận 4 cho rằng nếu tòa tuyên rõ tịch thu vật chứng là sợi dây chuyền để sung công quỹ Nhà nước thì việc thi hành án rất đơn giản. Tuy nhiên, vì tòa tuyên không rõ nên cơ quan thi hành án phải làm lại các thủ tục mà cơ quan điều tra đã thực hiện khi điều tra vụ án như xác định sợi dây chuyền và trọng lượng của nó… Việc này ít nhiều đã gây lúng túng cho chấp hành viên, kéo dài thời gian thi hành án.

3. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Thủ tục hành chính khổ vì luật chồng chéo!. Bài báo phản ánh: Việc chứng thực chữ ký tưởng chừng đã rất “thông thoáng” sau thẩm quyền này được chuyển giao cho UBND các phường, xã, quận, huyện nhưng cũng đang tồn tại bất cập khiến cho việc cải cách thủ tục hành chính chưa “chuẩn”. Theo Nghị định 79/2009/NĐ-CP thì "người ký phải ký trước mặt người chứng thực". Tuy nhiên, điều này lại “vênh”  với cơ chế "một cửa" là cán bộ chuyên môn (tư pháp) không được trực tiếp nhận hồ sơ chứng thực của dân, mà người dân nộp hồ sơ qua “một cửa”. Mà cán bộ “một cửa” thì không thể làm thủ tục chứng thực được, nên người dân phải nộp hồ sơ ở “một cửa”, sau đó đến “một cửa” khác gặp người chứng thực để ký, rồi quay lại “một cửa” để nhận kết quả. Thành thử ra, người dân phải đến “hai cửa” mới xong việc, còn cán bộ thì cũng “bó tay” bởi nếu làm theo Nghị định 79 thì trái với cơ chế "một cửa", còn thực hiện đúng theo "một cửa" thì lại không đúng với Nghị định 79!

Tương tự như lĩnh vực địa chính, cũng có những đề xuất cử cán bộ tư pháp ra bộ phận "một cửa" để thuận tiện giải quyết các công việc liên quan đến mảng tư pháp nhưng UBND TP Hà Nội đã quy định bộ phận "một cửa" sử dụng cán bộ công chức ở chức danh văn phòng - thống kê làm chuyên trách, nên bố trí cán bộ tư pháp ở một cửa cũng không hợp lý.

Việc chứng thực bản sao song ngữ cũng tồn tại nhiều bất cập. Khi Nghị định 79/2007/NĐ-CP có hiệu lực, do “quên” không quy định thẩm quyền chứng thực bản sao song ngữ là của UBND cấp huyện hay cấp xã, đã khiến cả cán bộ tư pháp và người dân lúng túng, mỗi nơi áp dụng một kiểu. Khắc phục tình trạng này, Thông tư 03/2008/TT-BTP của Bộ Tư pháp đã quy định đối với các giấy tờ, văn bản có tính chất song ngữ (ví dụ: Hộ chiếu của công dân Việt Nam, chứng chỉ tốt nghiệp của các trường ĐH Việt Nam liên kết với trường ĐH của nước ngoài, Giấy chứng nhận kết hôn của người Việt Nam và người nước ngoài, các văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp... trong đó có ghi đầy đủ bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài) thì người yêu cầu chứng thực được lựa chọn chứng thực tại Phòng Tư pháp cấp huyện hoặc UBND cấp xã. Còn đối với các giấy tờ, văn bản chỉ bằng tiếng nước ngoài hoặc chủ yếu bằng tiếng nước ngoài có xen một số từ bằng tiếng Việt (ví dụ: Văn bằng, chứng chỉ do cơ quan, tổ chức nước ngoài cấp cho người Việt Nam trong đó có ghi tên người Việt Nam bằng tiếng Việt...) thì cơ quan có thẩm quyền chứng thực là Phòng Tư pháp cấp huyện.

Tuy nhiên, từ ngày 3-5-2012, khi Nghị định 04/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 5 của Nghị định số 79/CP có hiệu lực, đã bổ sung thẩm quyền cho Phòng Tư pháp, nhưng lại không quy định cụ thể về văn bản song ngữ và “có tính chất song ngữ” nên việc áp dụng lại thiếu đồng nhất. Hiện, nhiều xã, phường đã từ chối chứng thực bất kỳ văn bản nào có song ngữ vì cho rằng không thuộc thẩm quyền của mình và hướng dẫn người dân đến UBND quận, huyện để làm. Còn người dân, sau một thời gian quen với việc có thể đến xã, hoặc phường để chứng thực văn bản “có tính chất song ngữ”, nay lại bắt buộc phải đến Phòng Tư pháp mới chứng thực được những loại giấy tờ này… Việc nhiều, người ít, một số quận, huyện của Hà Nội đã lên tiếng vì không “đủ sức” để chứng thực bản sao và Sở Tư pháp Hà Nội đã đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, trên cơ sở tạo thuận lợi tốt nhất cho người dân.

Rõ ràng, để cải cách thủ tục hành chính hiệu quả, trước hết phải bắt nguồn từ những quy định về việc thực hiện thủ tục hành chính thật “chuẩn”!

4. Báo Đại đoàn kết tiếp tục đưa tin về Đề án Văn phòng Công chứng Quảng Ninh tại Cẩm Phả với bài Đề án Văn phòng Công chứng Quảng Ninh tại Cẩm Phả: Lộ sai sót trong chấm điểm?. Bài báo phản ánh: Ngay sau khi Sở Tư Pháp tỉnh Quảng Ninh công bố kết quả hồ sơ Đề án Văn phòng công chứng (VPCC) mang tên Công chứng viên (CCV) Đặng Văn Minh tại Cẩm Phả đạt điểm cao nhất trong việc xin thành lập hoạt động, đại diện các chủ đề án khác đã có khiếu nại về những hành vi gian dối trong khâu chuẩn bị hồ sơ của đề án này. Sở Tư Pháp tỉnh Quảng Ninh đã vào cuộc và làm rõ, song vẫn không có hướng giải quyết dứt điểm khiến khiếu kiện kéo dài.

Ông Vũ Hồng Hiệp, hiện trú tại tổ 4 khu Trần Hưng Đạo, phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh cho biết: Sở Tư Pháp Quảng Ninh đã chọn đề án giả mạo nhân sự. Hồ sơ đề án được chọn của ông Đặng Văn Minh đã tự ý sao chép bằng Đại học Luật Hà Nội, cấp ngày 15-9-2008 của ông Trịnh Đức Tâm (SN 1986 hiện đang là Thư ký, làm việc tại TAND TP. Hạ Long), không được sự đồng ý cũng như cho phép của ông Tâm. Tuy nhiên, đến nay Sở vẫn không giải quyết triệt để khiếu nại, có dấu hiệu bao che cho hành vi gian dối này. Liên quan đến sự việc, tại Biên bản xác minh ngày 18-11-2011 về sự gian dối của ông Minh, ông Trịnh Đức Tâm cho biết: "Tôi không tham gia vào nhân sự tại đề án thành lập VPCC Quảng Ninh tại Cẩm Phả”. Ông Tâm cũng khẳng định: Không hề biết tại sao bằng cấp của ông lại có trong hồ sơ đề án một cách khó hiểu như vậy. Theo ông Tâm, ông không đồng ý sử dụng bằng cấp của ông để đưa vào đề án VPCC, nhưng bằng cấp của ông lại được sao chép để đưa vào hồ sơ đề án VPCC của ông Đặng Văn Minh nộp về Sở Tư Pháp thẩm định chấm điểm.

Sau khi đề án ông Đặng Văn Minh được Tổ công tác Sở Tư Pháp chấm điểm cao nhất Top 5, ông Hoàng Quốc Huy, một chủ đề án tham gia nộp hồ sơ đăng ký đề án thành lập VPCC cũng đã có đơn khiếu nại về cách thức và căn cứ chấm điểm của Tổ công tác không được rõ ràng minh bạch, khiến lợi ích hợp pháp của ông bị tổn thương, và sự không minh bạch trong hồ sơ đề án của ông Minh về địa điểm thành lập VPCC. Sau thanh tra, ông Phạm Thanh Phong, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh đã ký văn bản số 4967/CV-STP về việc trả lời đơn của CCV Hoàng Quốc Huy đã xác định thêm một số nội dung khác không có trong nội dung đơn, đã cộng thêm 1 điểm cho phần diện tích sàn một tầng trong đề án của ông Huy. Theo đó, ông Huy được tính tổng số điểm cuối cùng là 108 điểm, thay cho số điểm 107 được chấm trước đó. Trong khi đó, Thanh tra Sở Tư pháp cũng đã phát hiện, theo đề án ông Đặng Văn Minh về nơi gửi xe bị ngăn bởi giải phân cách, nên nội dung này không thể được tính 7 điểm như trước. Cùng việc Sở Tư Pháp loại trừ không tính 6 điểm đối với 2 thư ký nghiệp vụ là ông Trịnh Đức Tâm và bà Nguyễn Thị Tuyết. Như vậy, số điểm tính cho bộ hồ sơ đề án ông Đặng Văn Minh chỉ còn đạt 141 điểm (đã trừ đi 13 điểm trong tổng số điểm 154 mà Sở Tư Pháp công bố trước đó). Trước những khuất tất trên, UBND tỉnh Quảng Ninh cần làm rõ vụ việc, tránh khiếu kiện kéo dài.

5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Góp ý dự luật Hộ tịch: Khả năng làm giả sổ rất lớn. Bài báo đưa tin: Chiều 19-9, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM đã tổ chức hội thảo góp ý dự luật Hộ tịch.

Thượng tá Phan Hùng Dũng - Phó phòng Pháp chế Công an TP.HCM đã khuyến cáo việc cấp sổ hộ tịch cho từng cá nhân sẽ là bước “cải lùi” vừa tăng thêm gánh nặng giấy tờ hành chính cho người dân, vừa không có tác dụng hỗ trợ quản lý nhà nước. Ông Dũng thắc mắc: “Sổ hộ tịch dùng để làm gì? Tuy gom lại, thể hiện đầy đủ những thông tin cá nhân nhưng sổ hộ tịch không thể thay được khai sinh, CMND, hộ khẩu, giấy kết hôn… Sổ hộ tịch không có ảnh, không có dấu vân tay, nếu cơ quan có thẩm quyền muốn đưa sổ vào sử dụng trong thủ tục gì cũng rất đáng lo về việc người khác sử dụng sổ mượn, làm giả sổ. Đó là chưa kể chi phí lập sổ hộ tịch rất lớn”.

Dự thảo Luật Hộ tịch quy định thẩm quyền đăng ký hộ tịch: khai sinh, kết hôn, khai tử, giám hộ… chỉ do một cấp phường, xã thực hiện cũng gây nhiều lo ngại. Nhiều ý kiến cho rằng những vấn đề hộ tịch liên quan đến yếu tố nước ngoài khá phức tạp, trong khi trình độ, năng lực cán bộ hộ tịch phường, xã, nhất là ở vùng sâu, vùng xa khó lòng đảm trách được. Vì vậy, tốt nhất nên quy định thẩm quyền đăng ký hộ tịch hai cấp. Cấp phường, xã chỉ đăng ký hộ tịch cho công dân Việt Nam, còn những trường hợp có yếu tố nước ngoài sẽ do cấp tỉnh, thành phố thực hiện.

6. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Muốn từ con: Không dễ!. Bài báo phản ánh: Có nhiều trường hợp bất khả kháng cha mẹ phải từ bỏ quyền nuôi con, tuy nhiên hiện luật không quy định điều này nên tòa không thể thụ lý giải quyết.

Theo hồ sơ, do công việc làm ăn, anh T. thường xuyên qua Đức công tác. Tại đây, anh T. phát sinh tình cảm với chị H. và đến năm 2010, chị H. sinh một bé trai. Ít lâu sau, anh T. về nước, còn chị H. ở Đức một mình nuôi con. Nhiều lần trao đổi qua lại, anh H. đồng ý từ bỏ quyền nuôi con. Chị H. cũng không dây dưa thêm. Tuy nhiên, một mình nơi xứ người, chị không đủ sức nuôi con nên làm thủ tục cho con nhập tịch và xin trợ cấp của chính phủ Đức để trang trải cuộc sống hai mẹ con. Ngoài việc nộp các giấy tờ chứng minh hoàn cảnh thực tế, chính phủ Đức yêu cầu chị phải có quyết định của tòa án tại Việt Nam về việc anh T. từ chối nuôi con.

Trước yêu cầu này, chị về nước liên hệ với tòa án nơi anh T. sinh sống để làm thủ tục. Tuy nhiên, tòa đã từ chối vì không thuộc thẩm quyền giải quyết và pháp luật Việt Nam cũng không có quy định về vấn đề này.

Hoàn cảnh trên của chị H. hiện không phải là trường hợp cá biệt bởi thực trạng hiện nay cũng có rất nhiều trường hợp người làm cha, làm mẹ từ con từ khi mới sinh, đồng ý cho bên còn lại nuôi con. Tuy nhiên, tòa đã từ chối giải quyết như trường hợp của chị H. nêu trên.

Trao đổi về vấn đề này, luật sư Trần Hải Đức (Đoàn Luật sư TP.HCM) cho biết Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay không có chế định từ con. Người làm cha, làm mẹ không thể từ chối nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái vì thế yêu cầu của chị H. tòa không thể thụ lý giải quyết.

Tuy nhiên, luật sư Đức cho biết thêm ở đây có sự xung đột pháp lý giữa nước ta với Đức. Luật nước Đức lại cho phép cha mẹ có thể từ con, từ chối nghĩa vụ nuôi con.

Luật gia Đặng Đình Thịnh (Giám đốc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Hội Luật gia Việt Nam) phân tích đây là vấn đề nan giải do có sự xung đột pháp lý giữa hai nước. Vì thế để gỡ vướng thì một trong hai hệ thống pháp luật phải có sự điều chỉnh.

Theo luật gia Thịnh, do đứa trẻ đang được nuôi dưỡng tại nước ngoài và cần chính sách hỗ trợ của nhà nước này nên chăng cần sự điều chỉnh pháp luật nước đó. Chị H. có thể liên lạc với nước sở tại hỏi lại thủ tục trong trường hợp không có quyết định của tòa án Việt Nam như yêu cầu thì có thể có cách khác không. Chẳng hạn như giấy xác nhận chị một mình nuôi con hoàn cảnh khó khăn... Trong trường hợp này, chị H. nên yêu cầu sự hỗ trợ của lãnh sự quán nước ta tại Đức. Còn việc điều chỉnh pháp luật nước ta cho vấn đề này e khó thực hiện. Bởi lẽ nếu sửa luật là cùng lúc phải sửa Luật Hôn nhân và Gia đình, luật dân sự và luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, về lâu dài nên chăng có việc điều chỉnh luật trong một phạm vi nhất định để giải quyết cho những trường hợp trẻ đang sinh sống ngoài lãnh thổ như con chị H.

 



File đính kèm