Điểm tin báo chí sáng ngày 16 tháng 8 năm 2012

16/08/2012
Trong buổi sáng ngày 16/8/2012, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
   

I-        THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo điện tử Chính phủ có bài Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng pháp luật. Bài báo đưa tin: Theo Nghị quyết Phiên họp chuyên đề về công tác xây dựng pháp luật được Chính phủ ban ngày 15/8/2012, Chính phủ giao các Bộ hoàn chỉnh 8 dự án Luật. 8 dự án Luật này bao gồm: Dự án Luật Đất đai (sửa đổi); dự án Luật Giáo dục quốc phòng-an ninh; dự án Luật Thủ đô; dự án Luật Hộ tịch; dự án Luật Việc làm; dự án Luật Hoà giải cơ sở; dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi).

Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật Đất đai (sửa đổi), báo cáo Chính phủ tại phiên họp tháng 8/2012 trước khi trình Quốc hội.

Về dự án Luật Thủ đô, Chính phủ khẳng định Luật Thủ đô được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý để phát huy tối đa các nguồn lực cho việc xây dựng và phát triển Thủ đô theo hướng văn minh, hiện đại, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh Thủ đô ban hành năm 2000.

Luật Hòa giải cơ sở được ban hành sẽ hoàn thiện các chế định pháp lý về công tác hòa giải cơ sở; tạo chuyển biến và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác hòa giải ở cơ sở.

Bộ Tư pháp được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, và các Bộ liên quan tiếp thu ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật trên. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, ký Tờ trình Quốc hội dự án Luật này.

2. Trang VietnamPlus có bài Triển khai Công ước ASEAN về chống khủng bố. Bài báo đưa tin: Ngày 15/8, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Quyết định số 1087/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước ASEAN về chống khủng bố.

Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước ASEAN về chống khủng bố xác định nội dung công việc, trách nhiệm và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, cơ quan, địa phương trong triển khai thực hiện Công ước ASEAN về chống khủng bố.

Các nội dung thực hiện bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và điều kiện thực tiễn xã hội của Việt Nam và nhằm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của nước thành viên trong đấu tranh phòng, chống tội phạm khủng bố; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống khủng bố.

3. Báo Kinh tế Sài Gòn Online có bài  Ba năm cấp 3.495 giấy phép khai khoáng. Bài báo phản ánh: Chỉ tính riêng trong 3 năm (từ tháng 10/2005 đến tháng 8/2008), các địa phương đã cấp 3.495 giấy phép khai thác khoáng sản, gấp hơn 7 lần số lượng trung ương cấp trong 12 năm.

Số giấy phép khai thác được công bố lớn đến như vậy là theo thông tin của Chính phủ trong “Báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường” do đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đưa ra hôm 15-8 tại phiên họp của UBTVQH.

Số giấy phép này bị đoàn giám sát đánh giá là: “Khá lớn, vượt quá nhu cầu làm tổn hại tới môi trường, thất thoát tài nguyên”. Bởi tính trung bình trong khoảng thời gian đó, mỗi năm có 1.165 giấy phép được các địa phương cấp.

Thực tế trên cho thấy hiệu lực của quá nhiều văn bản pháp quy từ trung ương đến địa phương riêng trong lĩnh vực này là không cao, thậm chí nhiều văn bản bừa bãi và lỏng lẻo.

Theo báo cáo của Chính phủ, đã có 217 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về khoáng sản,bảo vệ môi trường (BVMT) trong khai thác khoáng sản và các văn bản liên quan (đất đai, nước, bảo vệ và phát triển rừng..) . Trong số đó có 143 văn bản quản lý khoáng sản (59 văn bản còn hiệu lực).

Tính riêng về văn bản được ban hành thì địa phương lại tiếp tục vượt xa trung ương. Báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến tháng 7 năm 2011, HĐND và UBND cấp tỉnh các địa phương đã ban hành 691 văn bản trong đó có 302 VBQPPL thuộc thẩm quyền trong quản lý nhà nước về khoáng sản gắn với BVMT. Có địa phương ban hành tới 95 văn bản (Đồng Nai), 37 văn bản (Lâm Đồng), 23 văn bản (Cao Bằng) trong khi có địa phương chỉ ban hành 1- 2 văn bản.

Song không phải tính khả thi của các văn bản pháp lý này cao. Điều 79 của Luật Khoáng sản 2010 về đấu giá quyền khai thác khoáng sản ở khu vực chưa thăm dò có ý kiến cho là khó khả thi; việc phải trả tiền cho khai thác khoáng sản ở khu vực chưa thăm dò tiềm ẩn rủi ro. Cũng tại luật này, Điều 80 không quy định rõ vai trò của Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng. Bộ Công Thương lại được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về khai thác mỏ, chế biến và sử dụng khoáng sản (trừ khoáng sản làm vật liệu xây dựng); Bộ Xây dựng được giao nhiệm vụ quản lý riêng khoáng sản làm vật liệu xây dựng.

Các văn bản quy phạm pháp luật về thuế tài nguyên chưa thật sự chặt chẽ, như thuế suất thuế tài nguyên được quy định trong khoảng rộng (than 4-20%, dầu thô 4-40%, đất hiếm 12-25%, kim loại 7-25%, phi kim 3-15%), mặc dù đã tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều hành, quản lý thuế dễ điều chỉnh trong quá trình triển khai thực hiện cho phù hợp với thực tiễn, nhưng mặt khác dễ dẫn đến việc áp dụng có lúc, có nơi còn tùy tiện.

Mặt khác, người dân vùng dự án cũng bị thiệt vì quy định của pháp luật. Theo quy định, dự án khai thác khoáng sản thường được chuẩn bị từ nhiều năm trước, đến khi triển khai dự án và đền bù thì lại áp dụng theo khung giá từ lúc chuẩn bị dự án (thường chậm 4-5 năm), do vậy giá đất đền bù cho người dân là thấp, bất cập và gây ra nhiều bức xúc, thậm chí khiếu nại kéo dài.

II-THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an nhân dân Online có bài Đề nghị Tòa phúc thẩm TAND TP HCM xem xét lại vụ án đúng pháp luật. Bài báo phản ánh: Bà Lê Thị Nhâm, ngụ phường 4, quận Tân Bình, TP HCM đã nhiều lần gửi đơn đến các cấp tòa án, Chi cục Thi hành án dân sự quận 5, Cục Thi hành án dân sự TP HCM và các cơ quan báo chí kêu cứu vì chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự quận 5, TP HCM Trần Văn Thành “giải cứu” tài sản đảm bảo thi hành án dẫn đến việc người được “giải cứu” tài sản (bị đơn) tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án trong một vụ án mà bà là nguyên đơn…

Được biết, ngày 21/7/2008, bà Nguyễn Thị Ngọc Hồng kí hợp đồng nhận cọc của bà Nhâm 100 lượng vàng SJC để bán căn nhà 121 Trần Hưng Đạo, phường 6, quận 5, với giá 400 lượng vàng SJC. Vì nhà đang thế chấp Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh 2 để vay 6 tỷ đồng nên bà Hồng cam kết sẽ dùng số tiền nhận cọc của bà Nhâm để giải chấp, sau đó ra công chứng ký hợp đồng mua bán nhà, thời gian thực hiện trong 6 tháng. Lấy lý do chưa đủ tiền giải chấp, bà Hồng yêu cầu bà Nhâm đưa tiếp 30 lượng vàng SJC nữa và vay thêm 110 triệu đồng (tương đương gần 7 lượng vàng thời điểm bấy giờ). Sau đó bà Hồng trả lại bà Nhâm tổng cộng gần 12 lượng vàng... Đến hẹn, bà Hồng trở mặt không bán nhà cho bà Nhâm nữa và cũng không đả động gì đến số vàng đã nhận. Do vậy, bà Nhâm kiện bà Hồng ra tòa.

Qua 2 cấp xét xử, TAND quận 5 xử sơ thẩm và TAND TP HCM xử phúc thẩm đều tuyên buộc bà Hồng có trách nhiệm trả cho bà Nhâm 100 lượng vàng tiền đặt cọc, hơn 24 lượng vàng mượn thêm và 100 lượng vàng bồi thường tiền cọc. Tổng cộng bà Hồng phải trả cho bà Nhâm 224,95 lượng vàng.

Khi bản án có hiệu lực, theo yêu cầu của bà Nhâm, ngày 8/4/2010, Chi cục Thi hành án dân sự quận 5 đã ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên (CHV) Trần Văn Thành thi hành Bản án số 300/2010/DSPT. Ngày 12/4/2010, CHV Trần Văn Thành ra thông báo đề nghị các cơ quan chức năng tạm dừng việc đăng ký, chuyển nhượng, thay đổi hiện trạng về tài sản nhà, đất tại số 121 Trần Hưng Đạo để đảm bảo thi hành án.

Ngày 18/10/2010, VKSND Tối cao có Kháng nghị số 152/QĐ-KNGĐT-VS, đề nghị Tòa dân sự TAND Tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm của TAND TP Hồ Chí Minh và giao hồ sơ cho TAND quận 5 xét xử lại theo quy định của pháp luật. Đồng thời tạm đình chỉ thi hành bản án của TAND TP HCM để chờ xét xử giám đốc thẩm. Tuy chưa cho quyết định giám đốc thẩm, nhưng CHV Trần Văn Thành liền ký Công văn số 65/THA ngày 27/10 giải tỏa ngăn chặn đối với nhà 121 Trần Hưng Đạo và chỉ trong 3 ngày tiếp theo ngày 30/10/2010, bà Hồng đã đến phòng công chứng Chợ Lớn ký hợp đồng chuyển nhượng căn nhà nói trên cho ông Trần Thành Chi với giá 8 tỷ đồng…

Trong thời gian chờ TAND quận 5 xét xử sơ thẩm lại, bà Nhâm gửi đơn nhiều lần yêu cầu TAND quận 5 áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cấm bà Hồng chuyển dịch về quyền sở hữu căn nhà 121 Trần Hưng Đạo (vì trên thực tế thời điểm này nhà 121 Trần Hưng Đạo vẫn đứng tên và bà Hồng chưa sang tên ông Chi). Nhưng phiên tòa sơ thẩm xét xử lại ngày 22/3/2012 và tuyên án ngày 24/5/2012 do thẩm phán Lê Thanh Huyền chủ tọa phiên tòa đã xử “chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nhâm”, chấm dứt hợp đồng đặt cọc bán nhà đã ký ngày 21/7/2008 giữa bà Lê Thị Nhâm và bà Nguyễn Thị Ngọc Hồng, bà Hồng có nghĩa vụ trả cho bà Nhâm 224,695 lượng vàng SJC.

Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố hủy hợp đồng chuyển nhượng… giữa bà Hồng và ông Chi là vô hiệu… do vậy, bà Nhâm lại tiếp tục gửi đơn đến các cơ quan thẩm quyền và thông tấn báo chí kêu cứu về việc đề nghị Tòa phúc thẩm TAND TP HCM hủy hợp đồng mua bán trái phép giữa bà Hồng và ông Chi, đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm một cách công minh, đúng pháp luật.

2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Thông tin thêm về vụ chiếm đoạt gần chục tỷ đồng tại quận 2: Làm hợp đồng giả để chiếm đoạt nhà. Bài báo phản ánh: Qua phản ánh của Báo CATP nhiều nạn nhân đã gửi đơn tố cáo hành vi của các đối tượng này lên cơ quan CSĐT CATP, trong đó có không ít người bị mất trắng cả ngôi nhà chỉ vì trót tin vào những lời “đường mật” của ba “nữ quái” này.

Do quen biết từ trước nên chị Trương Cẩm Vân (SN 1973) - vợ của anh Nguyễn Văn Xuân (SN 1973, cùng ngụ P. Thạnh Mỹ Lợi, Q2) thường xuyên qua lại với hai chị em Nguyễn Ngọc Mai Thanh (SN 1977) và Nguyễn Ngọc Thủy (SN 1979, cùng ngụ P. Bình Trưng Đông, Q2). Khoảng đầu tháng 12-2011, Thanh và Thủy cho biết do đang kẹt vốn làm ăn nên cả hai đề nghị chị Vân cho mượn chứng minh nhân dân và giấy tờ của căn nhà số 41 (đường số 16, P. Thạnh Mỹ Lợi, Q2) do anh Xuân và chị cùng đứng tên chủ sở hữu để vay vốn xoay sở cho việc làm ăn. Vì tin tưởng hai chị em Thanh nên chị Vân đã đồng ý. Ngày 6-12-2011, Thanh và Thủy hẹn chị Vân đến Phòng Công chứng số 1 để trả lại giấy tờ. Tuy nhiên, khi đến nơi chị Vân mới biết hai chị em Thanh đã thuê một người đàn ông khác dán hình vào chứng minh nhân dân của anh Xuân để làm giấy ủy quyền cho chị Vân trong việc thế chấp và bán căn nhà. Thấy chị Vân có vẻ nghi ngờ, nhưng vì biết chị không hiểu biết về các thủ tục pháp lý nên cả hai liền nhanh chóng ra sức biện bạch rằng chỉ cần chị Vân đồng ý giúp thì trong vòng ba tháng sau sẽ trả lại giấy tờ cho chị. Ngay sau đó, hợp đồng ủy quyền được chứng nhận bởi công chứng viên Phan Thị Bình Thuận. Đến ngày 8-12-2011, hai chị em Thanh và Thủy lại hẹn chị Vân đến Phòng Công chứng để làm hợp đồng thế chấp căn nhà, nhưng thực chất là làm giấy tờ mua bán cho một người tên Hùng ở quận Bình Thạnh. Sau khi hợp đồng được ký, gia đình người này đã giao cho chị em Thanh số tiền 900 triệu đồng. Sau đó, Thủy và Thanh nói với chị Vân rằng hàng tháng phải trả tiền lãi 4% cho Hùng, đồng thời mỗi tháng cả hai sẽ đưa cho chị Vân bốn triệu đồng. Đến đầu tháng 3-2012, khi chị Vân hỏi Thanh và Thủy về việc trả lại giấy tờ nhà thì cả hai nói rằng do chuyện làm ăn lâu dài, mà thời gian mượn tiền thì quá ngắn nên chưa thể xoay xở kịp. Chính vì vậy cả hai xin chị Vân cho gia hạn thêm ba tháng, đồng thời nhờ chị mượn giúp thêm 500 triệu nữa. Vì tin lời của hai chị em Thanh nên ngày 2-3-2012, chị Vân đã đến Phòng Công chứng số 1 để làm thủ tục xin xóa hợp đồng cũ và làm lại hợp đồng mua bán mới có tổng giá trị là 1,4 tỷ đồng với ông Phan Biên (SN 1946, ngụ P. Tân Định, Q1). Sau khi ông Biên đưa cho Thanh và Thủy thêm 350 triệu, cả hai đảm bảo với chị Vân rằng đến đầu tháng 6-2012 sẽ trả lại toàn bộ giấy tờ cho chị. Anh Nguyễn Văn Xuân – chồng chị Vân hoàn toàn không hề hay biết về những chuyện này. Đến ngày 20-4-2012, khi hay tin cả ba mẹ con bà Trần Thị Xương, Nguyễn Ngọc Mai Thanh và Nguyễn Ngọc Thủy đã bỏ trốn, các chủ nợ khác cũng tìm đến để đòi nợ thì chị Vân mới vỡ lẽ ra mọi việc!

Ngày 26-4, anh Xuân nhận được cuộc điện thoại của một phụ nữ tên Lan Anh (con của ông Phan Biên) cho biết chị Vân đã hoàn tất thủ tục bán căn nhà tại Phòng Công chứng số 1 và yêu cầu anh phải giao nhà ngay. Quá bức xúc về yêu cầu này, anh Xuân liền đến Phòng Công chứng xin trích lục lại hồ sơ công chứng mua bán nhà của mình để làm rõ. Tại đây, anh Xuân rất bất ngờ khi anh không hề đến phòng công chứng để làm giấy ủy quyền cho vợ anh bán căn nhà, nhưng trong hợp đồng ủy quyền lại có chữ ký và dấu vân tay của anh?! Ngay sau đó, anh Xuân đã làm đơn tố cáo hành vi giả mạo chữ ký để chiếm đoạt tài sản của hai chị em Thanh và Thủy gửi lên Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an thành phố, đồng thời cũng đã đề nghị Ủy ban nhân dân quận 2 tạm dừng việc đăng bộ và chuyển dịch căn nhà của anh.

3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nên chăng “trẻ hóa” độ tuổi kết hôn?. Bài báo phản ánh: Xã hội phát triển dẫn đến tình trạng trẻ em dậy thì và phát triển ngày càng sớm, trong đó một bộ phận giới trẻ có xu hướng quan hệ yêu đương và bước vào cuộc sống gia đình sớm hơn. Từ thực tế đó, nhiều chuyên gia cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000 cần phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định, trong đó có quy định về tuổi kết hôn để phù hợp hơn với sự phát triển xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc cải cách và hội nhập quốc tế.

So với thời điểm hơn 10 năm trước, khi Luật HN&GĐ năm 2000 được ban hành, hiện nay trẻ em dậy thì và phát triển sớm hơn, trong đó một bộ phận giới trẻ có xu hướng quan hệ yêu đương và bước vào cuộc sống gia đình khá sớm. Không còn là hy hữu những câu chuyện các bé gái dưới 16 tuổi nhưng về tâm sinh lý đã phát triển khá đầy đủ, dạn dĩ và chủ động bước vào chuyện yêu đương.

Trước thực tế trên, nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng, việc Luật HN&GĐ quy định người nữ phải từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi mới được phép đăng ký kết hôn đã có những biểu hiện lạc hậu, không theo kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội.

Bất cập rõ nhất của quy định về độ tuổi này trong thực tiễn là sự thiệt thòi, “bất bình đẳng” đối với nữ giới; chưa kể quy định nữ phải 18 tuổi mới “được phép” kết hôn là “lạc hậu” không theo kịp sự phát triển của xã hội.

Thực tế hiện nay, ở nhiều vùng miền địa phương, nhiều trường hợp người nữ chưa đủ 18 tuổi (tuổi pháp luật quy định được phép kết hôn) nhưng họ vẫn lấy chồng, sinh con đẻ cái và thực hiện đầy đủ các thiên chức của người vợ, người mẹ. Vậy quy định họ buộc phải chờ đủ 18 tuổi mới được đăng ký kết hôn chẳng phải là gây thiệt thòi, làm phương hại đến quyền lợi của họ?

Bên cạnh đó, quy định nữ bước sang tuổi 18 kết hôn được coi là hợp pháp nhưng Luật lại không quy định cụ thể họ có quyền tham gia tất cả các giao dịch liên quan đến tài sản trong hôn nhân vì nhiều giao dịch như giao dịch về bất động sản, tín dụng... theo pháp luật hiện hành đòi hỏi chủ thể của giao dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

Mặt khác, cũng theo Luật HN &GĐ hiện hành, nữ bước sang tuổi 18 đã được đăng ký kết hôn. Có điều, nếu muốn ly hôn thì họ phải từ đủ 18 tuổi vì pháp luật về tố tụng dân sự quy định, cá nhân phải đủ 18 tuổi mới có thể tự mình là chủ thể của các quan hệ tố tụng. Vì vậy, dự kiến Luật HN&GĐ sẽ sửa đổi theo hướng quy định nam nữ đủ 18 tuổi sẽ được phép đăng ký kết hôn.

Tuy nhiên, theo bà Ngô Thị Hường (giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội) thì không nên tranh cãi về độ tuổi kết hôn ở khía cạnh “tròn hay đủ”, mà phải dựa trên cơ sở tâm sinh lý của người kết hôn, phong tục tập quán... khi “rất nhiều trường hợp không đủ tuổi kết hôn nhưng vẫn chung sống, vẫn sinh con đẻ cái”.

Hơn nữa, xét ở góc độ khoa học tâm sinh lý, thì tuổi trưởng thành ở nữ giới thường sớm hơn nam. Vậy nên bà Hường kiến nghị, tới đây nên sửa đổi Luật HN&GĐ theo hướng hạ tuổi kết hôn đối với nữ là 16 hoặc 17.

Đồng quan điểm trên, Luật sư Nguyễn Bích Lan (Văn phòng Luật sư số 5, Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) cũng cho rằng việc hạ độ tuổi kết hôn là cần thiết, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển tự nhiên của xã hội. Theo bà Lan, nếu như cách đây 10 năm khi Luật HN&GĐ năm 2000 được ban hành, tuổi dậy thì trung bình của trẻ em Việt Nam là 13-14 tuổi thì hiện nay tuổi dậy thì trung bình đã khác: 9-12 tuổi. Chính vì vậy, cần thiết phải hạ độ tuổi kết hôn xuống để cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện đại; tuy nhiên hạ đến tuổi nào thì cần phải bàn bạc, cân nhắc.

Nhưng theo bà Bùi Thị Dung Huyền (Viện Khoa học xét xử, TAND tối cao) thì qua theo dõi tổng hợp ý kiến từ các toà án địa phương thuộc tất cả các vùng miền trong cả nước cho thấy: Đa số các tòa án địa phương cho rằng quy định độ tuổi kết hôn như hiện nay là phù hợp.

Theo bà Huyền, khó có thể dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của người kết hôn để cho phép kết hôn mà pháp luật phải có quy định chung, đó là nữ phải đủ 18 tuổi và nam đủ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn. Hơn nữa, khung pháp luật đã quy định công dân phải đủ 18 tuổi mới có năng lực hành vi đầy đủ thì việc hạ độ tuổi kết hôn là khó có tính khả thi.

III- NỘI DUNG KHÁC

Báo điện tử Chính phủ có bài Đà Nẵng cung cấp 12 dịch vụ công điện tử. Bài báo đưa tin: Sáng 15/8, Đà Nẵng đã tổ chức hội nghị triển khai dự án ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông cho các cơ quan chính quyền TP.

Dự kiến sẽ có 12 dịch vụ công điện tử được xây dựng và triển khai bao gồm: Quản lý giấy phép lái xe, Quản lý hộ tịch, Quản lý trợ cấp cho người nghèo; Quản lý đánh bắt cá; Quản lý sử dụng đất; Quản lý đăng ký kinh doanh; Quản lý đầu tư dự án; Quản lý cấp phép xây dựng; mua sắm điện tử; Thông tin địa lý; Quản lý sức khỏe; Phường điện tử, Quận điện tử.

Bên cạnh đó, các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông sẽ kết nối các cơ quan chính quyền TP Đà Nẵng vào một hệ thống để cùng nhau chia sẻ các nguồn tài nguyên, cơ sở dữ liệu cũng như các yêu cầu mà tổ chức và công dân đòi hỏi để cùng nhau phối hợp xử lý một cách nhanh chóng, chính xác và minh bạch

Dự án sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng vào ngày 30/5/2013, với tổng giá trị thực hiện là 90 tỷ đồng.



File đính kèm