I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin về Ngày làm việc thứ mười, kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII. Ngày 31-5, ngày làm việc thứ mười, kỳ họp thứ ba, Quốc hội (QH) khóa XIII. Các đại biểu Quốc hội đã nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về năm dự án luật, thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Trong phiên họp buổi sáng, các đại biểu QH đã nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra của năm dự án luật, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ðiện lực; Luật Dự trữ quốc gia; Luật Hợp tác xã (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư.
Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ðiện lực. Luật này được QH khóa XI, kỳ họp thứ 6, thông qua ngày 3-12-2004, đã tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động điện lực và sử dụng điện, góp phần khẳng định vai trò của điện lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên hiện nay, một số quy định của Luật Ðiện lực đã bộc lộ những bất cập, không còn phù hợp các mục tiêu phát triển, phương thức quản lý, điều hành của ngành điện lực. Trong quá trình thi hành đã có những khó khăn, vướng mắc giữa quy định của Luật với thực tiễn cuộc sống. Về quy hoạch và đầu tư phát triển điện lực, khâu lập và phê duyệt quy hoạch điện lực địa phương còn chồng chéo; thời gian của quy hoạch điện lực địa phương quá ngắn gây khó khăn, lãng phí trong quá trình thực hiện. Về giá điện và cơ chế điều chỉnh giá điện, còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa đáp ứng mục tiêu từng bước hình thành thị trường điện cạnh tranh trong nước nhằm chuyển ngành điện sang thực hiện theo cơ chế thị trường... Những hạn chế, bất cập trong quá trình thi hành Luật Ðiện lực đặt ra một yêu cầu cấp bách là cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp yêu cầu của thực tiễn hoạt động điện lực nói riêng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Ðối với Luật Dự trữ quốc gia, trình bày Tờ trình về Luật này, Bộ trưởng Tài chính Vương Ðình Huệ cho biết, Pháp lệnh Dự trữ quốc gia (DTQG) được ban hành ngày 29-4-2004 đã tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động DTQG. Tuy nhiên, qua tám năm thực hiện, Pháp lệnh đã bộc lộ nhiều hạn chế. Ủy ban Tài chính, Ngân sách của QH nhất trí với Chính phủ về sự cần thiết ban hành Luật Dự trữ quốc gia nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động DTQG, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn lực DTQG; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư Bùi Quang Vinh trình bày Tờ trình về dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi). Dự án Luật này nhằm mục tiêu khuyến khích và phát triển mạnh mẽ mô hình hợp tác xã kiểu mới, đồng thời định hướng phát triển các hợp tác xã hiện có hoạt động theo đúng bản chất hợp tác xã; đưa khu vực hợp tác xã nói riêng và thành phần kinh tế tập thể nói chung trở thành lực lượng to lớn, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng chục triệu người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế hộ thành viên, đặc biệt là kinh tế hộ nông dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần cải thiện công bằng xã hội, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, và định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Trong Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế do Bộ trưởng Tài chính Vương Ðình Huệ trình bày nêu rõ sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. Trong đó nhấn mạnh, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ngoài những tác động tích cực cũng xuất hiện những thách thức, ảnh hưởng tiêu cực đến công tác quản lý thuế (như dàn xếp tránh thuế, chuyển giá,...), đòi hỏi công tác quản lý thuế phải được tiếp tục hoàn thiện về thẩm quyền, biện pháp quản lý để phù hợp hơn với các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, góp phần tăng cường quản lý, giám sát công tác quản lý thuế nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia về quyền thu thuế.
Trong phiên họp này, QH cũng đã nghe Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư và Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Nguyễn Văn Hiện trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư.
Buổi chiều, các đại biểu QH thảo luận dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Dự thảo trình QH tại kỳ họp này đã được Ủy ban Thường vụ QH tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện trên cơ sở ý kiến đại biểu QH thảo luận ở tổ và ở hội trường tại kỳ họp trước và ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý tại hội thảo. Qua thảo luận, các ý kiến phát biểu cơ bản nhất trí với báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ QH; đồng thời đóng góp khá nhiều ý kiến về những quy định cụ thể, trong đó nhiều ý kiến đề nghị bổ sung nội dung vào một số điều, khoản trong dự thảo luật và chỉnh sửa về câu chữ.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến vẫn quan tâm phạm vi điều chỉnh của luật (Ðiều 1). Theo Ðiều 1, Luật này quy định về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Khoản 1). Nước biển và nước dưới đất thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; nước nóng, nước khoáng thiên nhiên được điều chỉnh bằng pháp luật khác (Khoản 2). Có ý kiến cho rằng, đối tượng quy định tại Khoản 2 Ðiều 1 cũng cần được điều chỉnh bởi luật này. Có ý kiến đề nghị tại Khoản 1, cụm từ: trên lãnh thổ của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đổi thành thuộc lãnh thổ của nước CHXHCN Việt Nam. Cũng có ý kiến lại cho rằng, quy định về phạm vi điều chỉnh ở Ðiều 1 là phù hợp Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Ngoài phạm vi điều chỉnh, một số ý kiến đề nghị bỏ Ðiều 33 quy định về phòng, chống ô nhiễm nước biển, vì ở Ðiều 1 quy định nước biển không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Có ý kiến phát biểu còn đề cập nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; chính sách của Nhà nước về tài nguyên nước.
Về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Người từng phạm tội nghiêm trọng không được làm luật sư. Bài báo đưa tin: Đó là ý kiến của đại đa số thành viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (QH) được Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện báo cáo thẩm tra trước QH về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư vào sáng 31-5.
Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, tờ trình của Chính phủ về dự thảo luật này sửa đổi theo hướng không cấm hành nghề luật sư đối với người phạm tội nghiêm trọng trong trường hợp đã được xóa án tích. Quy định này nhằm tạo thêm cơ hội hướng thiện và cơ hội hành nghề cho những người đã từng phạm tội. Tuy nhiên, qua thẩm tra, Ủy ban Tư pháp cho rằng hướng sửa đổi nêu trên chưa có sự tổng kết, đánh giá, thuyết minh đầy đủ về sự cần thiết của việc sửa đổi nội dung này. Hơn nữa, đặc thù của hoạt động luật sư, ngoài những đòi hỏi cao về kiến thức chuyên môn thì tư cách đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp và uy tín của luật sư trong đời sống xã hội là yếu tố hết sức quan trọng.
“Việc quy định cấm hành nghề luật sư đối với người đã từng phạm tội trong những trường hợp nhất định là cần thiết. Pháp luật của nhiều nước như Trung Quốc, Anh, Thái Lan, Nhật Bản... đã quy định như vậy. Chẳng hạn như Luật Luật sư của Nhật Bản quy định rất khắt khe. Những người bị kết án tù; người nguyên là thẩm phán bị sa thải theo quyết định của tòa án; người bị kỷ luật, đã khai trừ ra khỏi đoàn luật sư hoặc xóa đăng ký hành nghề luật sư nước ngoài, bị cấm hành nghề luật sư… Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị cho giữ quy định về vấn đề này như quy định của luật hiện hành” - ông Hiện nói.
Về quy định cho phép viên chức được hành nghề luật sư, Bộ trưởng Hà Hùng Cường cũng cho hay dự thảo luật sửa đổi theo hướng “viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật” vẫn thuộc diện được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Tuy nhiên, nội dung này cũng bị đa số ý kiến Ủy ban Tư pháp bác bỏ.
“Quy định cho phép viên chức làm công tác giảng dạy pháp luật được “kiêm nhiệm” hành nghề luật sư sẽ tạo ra ngoại lệ không phù hợp với định hướng xây dựng đội ngũ luật sư chuyên nghiệp. Đồng thời, điều này có thể làm phát sinh xung đột lợi ích khi luật sư là các giảng viên tham gia tố tụng. Việc hành nghề luật sư thường gắn liền với hoạt động tố tụng chủ yếu được tiến hành trong giờ hành chính nên giảng viên không thể làm thêm nghề luật sư trong giờ hành chính được... Đa số ý kiến trong Ủy ban Tư pháp đề nghị không quy định lại nội dung này trong dự thảo luật” - ông Hiện cho biết.
2. Báo Sài Gòn giải phòng Online đưa tin Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự Hội nghị WEF Đông Á 2012. Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Thái Lan Yingluck Shinawatra và Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Klaus Schwab, ngày 31-5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về Đông Á 2012 (WEF Đông Á 2012) tại thủ đô Bangkok của Thái Lan.
Với chủ đề “Định hình tương lai khu vực thông qua kết nối”, Hội nghị WEF Đông Á 2012 thu hút sự tham dự của lãnh đạo cấp cao nhiều nước châu Á như Thủ tướng Thái Lan, Thủ tướng Lào, Tổng thống Indonesia, Thủ tướng Bahrain, lãnh đạo nhiều tổ chức quốc tế như Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới, Tổng Giám đốc Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển, lãnh đạo Ngân hàng Phát triển châu Á và hơn 600 đại biểu là các chính khách, lãnh đạo các tập đoàn hàng đầu và các học giả quốc tế đến từ 50 quốc gia trên thế giới.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công lý có bài Thanh Hóa: Vô gia cư vì mua phải nhà bị thi hành án. Bài báo phản ánh: Đang sinh sống yên ổn trong ngôi nhà mình đã mua cách đây hơn 1 năm, gia đình anh Lê Đình Tâm (thôn 3A xã Xuân Phú, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) được thông báo phải di chuyển đồ đạc đi nơi khác bởi ngôi nhà này đang thuộc diện phải thi hành án...
Ngày 20-10-2009, anh Lê Đình Tâm, SN 1972 vay mượn thêm anh em, họ hàng mua một căn nhà và đất ở tại thôn 3A xã Xuân Phú của ông Đỗ Trường Thi (trú tại thôn 5, xã Xuân Trường, Thọ Xuân) với số tiền 120 triệu đồng. Quá trình mua bán, hai bên theo thoả thuận, giao tiền trực tiếp có ông Nguyễn Ngọc Lâm, Trưởng thôn 3, xã Xuân Phú làm chứng và xác nhận. Sau khi gia đình anh Tâm chuyển đồ đạc tới ở một thời gian thì mới biết, ngôi nhà này đang bị Thi hành án huyện Thọ Xuân kê biên để thi hành án, người bị thi hành án là bà Lê Thị Lệ. Anh Tâm khiếu nại lên Thi hành án huyện Thọ Xuân thì được biết: Ông Đỗ Trường Thi đã cho vợ chồng Đỗ Trường Thịnh và Lê Thị Lệ (con trai và con dâu ông Thi) ở thôn 3A xã Xuân Phú từ năm 1996. Năm 2008, vợ chồng Thịnh, Lệ mang ngôi nhà và đất này tín chấp vay vốn tại ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Lam Sơn, huyện Thọ Xuân. Tuy nhiên, do hiểu biết pháp luật hạn chế và không biết ngôi nhà, đất này đã được cho tặng nên anh Tâm mới mua.
Lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, anh Tâm đã đi khiếu nại khắp nơi đồng thời xem xét lại việc mua bán của mình liệu có gì mờ ám hay không? Tiến hành đối chất thì ông Đỗ Trường Thi vẫn viết, ký xác nhận ngôi nhà cùng đất ở tại thôn 3A xã Xuân Phú thuộc quyền sở hữu của mình, chưa cho ai và bán cho gia đình anh là hợp pháp. Thế nhưng, khi làm việc với các cơ quan chức năng, ông Thi lại khai nhận là ngôi nhà này đã cho vợ chồng Thịnh, Lệ từ năm 1996 (thể hiện trong các biên bản làm việc với cơ quan Thi hành án huyện Thọ Xuân, UBND xã Xuân Phú, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thọ Xuân…). Chính vì việc cho tặng này mà năm 2008, vợ chồng Thịnh - Lệ mới có thể mang ngôi nhà, đất này tín chấp ngân hàng để vay vốn. Từ sự tiền hậu bất nhất nói trên, anh Tâm cho rằng đã thể hiện dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của các đối tượng trên khiến gia đình anh không chỉ mất tiền mà còn vướng vào việc cưỡng chế nhà, đất ở của Thi hành án huyện Thọ Xuân và nay phải sống trong cảnh vô gia cư.
Thiết nghĩ, sau khi nhận được đơn đề nghị của gia đình anh Tâm, cơ quan Công an huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa cần nhanh chóng vào cuộc, điều tra xác minh có hay không hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong vụ việc này?
2. Báo Dân trí có bài Thái Bình: Doanh nghiệp "thoi thóp" chờ được thi hành án. Bài báo phản ánh: Đã 5 năm trôi qua, một doanh nghiệp lâm vào cảnh khốn đốn khi Cục Thi hành án tỉnh Thái Bình chậm tổ chức thi hành bản án, trong khi đó UBND tỉnh này “hứa” giải quyết vụ việc xong lại im lặng.
Như Dân trí đã đưa tin, Công ty TNHH Lâm Hà (Công ty Lâm Hà), có trụ sở tại số 68, đường Nguyễn Tuân, quận Thanh Xuân, Hà Nội khiếu nại chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình chậm thi hành bản án sơ thẩm số 02/2006 của TAND tỉnh Thái Bình và Quyết định phúc thẩm số 214/2006/QĐPT ngày 17/10/2006 của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội xử buộc Trường THPT dân lập Nguyễn Công Trứ (Trường Nguuyễn Công Trứ), phải trả Công ty TNHH Lâm Hà số tiền 1.115.570.917 đồng.
Do trường Nguyễn Công Trứ không chịu thanh toán nên Công ty Lâm Hà đã khởi kiện ra TAND tỉnh Thái Bình. Theo Bản án số 02/2006/KDTM-ST ngày 1/8/2006, TAND tỉnh Thái Bình quyết định xử buộc Trường Nguyễn Công Trứ phải thanh toán cho Công ty Lâm Hà số tiền 1.155.587.917 đồng, trong đó cộng lãi là 156.376.442 đồng.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ngày 6/11/2006, Thi hành án sân sự tỉnh Thái Bình ra Quyết định thi hành án số 17/QĐ-TĐYC.THA buộc trường Nguyễn Công Trứ phải trả cho Công ty Lâm Hà 1.155.587.917 đồng, nếu bên phải thi hành án chậm thi hành còn phải chịu theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định kể từ ngày 6/11/2006.
Mặc dù Thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình ra quyết định như vậy, nhưng đến nay Công ty Lâm Hà vẫn chưa nhận được một đồng nào từ Trường Nguyễn Công Trứ. Bức xúc trước việc chậm thi hành án của Trường Nguyễn Công Trứ cũng như của Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình, Công ty Lâm Hà đã có đơn gửi Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp.
Ngày 21/3, trao đổi với PV Dân trí, ông Phạm Văn Xuyên, Phó Chủ tịch tỉnh Thái Bình cho biết, sau khi nhận được thông tin của Báo Dân trí phản ánh về vụ “Doanh nghiệp khốn đốn vì 5 năm chưa được thi hành án”, UBND tỉnh sẽ tổ chức cuộc họp liên ngành để giải quyết vụ việc này trong tuần tới. Thành phần cuộc họp sẽ bao gồm lãnh đạo UBND tỉnh, VKSND, TAND, Sở Tư pháp, Cục Thi hành án Thái Bình… Quan điểm của lãnh đạo tỉnh sẽ xử lý dứt điểm vụ việc, tránh khiếu kiện kéo dài, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị được thi hành án.
Tiếc rằng, đến nay đã gần 3 tháng trôi qua kể từ khi ông Phạm Văn Xuyên “hứa” tổ chức họp để giải quyết vụ việc tồn đọng này, nhưng đến nay vụ việc vẫn “giậm chân tại chỗ”, doanh nghiệp đang từng ngày “thoi thóp” đợi chờ sự “ra tay” thi hành án của các cơ quan chức năng tỉnh Thái Bình.
Trường Nguyễn Công Trứ được thành lập theo Quyết định số 03 ngày 31/12/1995 của Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình và giao cho Trường Kinh tế kỹ thuật tỉnh Thái Bình làm cơ quan chủ quản. Ngày 4/1/1996, UBND tỉnh Thái Bình ra Quyết định số 02/QĐ ngày 4/1/1996 cử ông Ngô Thế Thông giữ chức Hiệu trưởng.
Sau khi sự việc xảy ra, ngày 1/11/2007, UBND tỉnh Thái Bình đã ban hành Quyết định thôi giữ chức Hiệu trưởng Trường Nguyễn Công Trứ đối với ông Ngô Thế Thông. Song, vấn đề mà dư luận và Công ty Lâm Hà thắc mắc ở đây là vì sao UBND tỉnh Thái Bình không hề có trách nhiệm với khoản nợ của Trường Nguyễn Công Trứ, ngôi trường do mình sinh ra? Vì sao Cục Thi hành án tỉnh Thái Bình lại chậm trễ trong việc thi hành bản án trên, khiến cho một doanh nghiệp lâm vào tình cảnh khốn đốn như Công ty Lâm Hà.
3. Báo Người lao động có bài Hủy án vụ “bị bắt vì không cấp dưỡng nuôi con”. Bài báo phản ánh: Ngày 31-5, TAND tỉnh Tiền Giang đã tuyên chấp nhận lời bào chữa của luật sư Nguyễn Văn Đức (Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước) hủy án sơ thẩm, giao về cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại vụ “Không chấp hành án” đối với bị cáo Nguyễn Văn Định (SN 1973, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) do quá trình thi hành án, kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản vi phạm nghiêm trọng Luật Thi hành án và hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ buộc tội đối với bị cáo Định.
Năm 2001, TAND tỉnh Tiền Giang đã công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Định và chị N.T.M.H, chị H. được nuôi con chung (SN 1995), buộc anh Định trả lại cho chị H. 3 triệu đồng (giá trị 1/2 ngôi nhà tài sản chung) và có nghĩa vụ góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng tương đương 15 kg gạo.
Cho rằng anh Định không chịu thi hành án, ngày 26-7-2011, Chi cục Thi hành án huyện Chợ Gạo có văn bản đề nghị Công an huyện Chợ Gạo khởi tố vụ án đối với Định. Ngày 18-10-2011, Công an huyện Chợ Gạo đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt giam anh Định. Ngày 17-2-2012, TAND huyện Chợ Gạo tuyên phạt bị cáo Định 9 tháng tù, đồng thời ra lệnh tạm giam bị cáo thêm 45 ngày để bảo đảm cho việc thi hành án.
Bị cáo kháng cáo xin miễn trách nhiệm hình sự vì quá nghèo, không có điều kiện thi hành án chứ không phải cố ý không chấp hành.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đà Nẵng hạn chế quyền sao y. Bài báo phản ánh: Địa phương này chỉ cho phép người dân đi chứng thực sao y bản chính các giấy tờ nhà, đất tại nơi có nhà, đất đó. Tác giả đưa hai câu chuyện liên quan đến cách xử lý trái luật của chính quyền Đà Nẵng
- Chị H. có một miếng đất tại phường Bình Hiên, quận Hải Châu. Khi chị mang giấy đỏ của đất này đến UBND phường Phước Ninh ở gần nhà để chứng thực sao y bản chính thì bị cán bộ phường này từ chối. Tương tự, nhiều người sinh sống ở quận Hải Châu nhưng có nhà, đất tại huyện Hòa Vang (cách xa hơn 20 km) khi đến các phường tại quận Hải Châu chứng thực sao y bản chính các giấy tờ nhà, đất cũng không được tiếp nhận và bị chỉ về UBND cấp xã nơi có đất.
Hỏi vì sao, chị H. và nhiều người được cán bộ phường cho biết: Theo Chỉ thị số 10 ngày 4-7-2011 của Thành ủy Đà Nẵng và Quyết định triển khai số 6048 ngày 18-7-2011 của UBND TP Đà Nẵng, chủ tịch UBND các phường, xã “không được chứng thực, sao y bản chính, xác nhận nguồn gốc đất đai của người dân và các loại đất đai không thuộc địa bàn mình quản lý”.
Điều đáng nói là hướng dẫn nêu trên hoàn toàn trái với Nghị định 79/2007 của Chính phủ (khoản 2 a Điều 5, khoản 1 Điều 11). Bởi lẽ theo nghị định này, người dân có quyền yêu cầu bất kỳ cơ quan có thẩm quyền chứng thực nào thực hiện việc chứng thực bản sao từ bản chính, không phụ thuộc nơi cư trú của người yêu cầu chứng thực.
- Mấy ngày qua, dù được mẹ làm hợp đồng ủy quyền hợp lệ nhưng anh NVM (phường Hòa An, quận Cẩm Lệ) vẫn không thể làm thủ tục công chứng các giao dịch đất của người mẹ.
Tại các tổ chức hành nghề công chứng mà anh M. đến, công chứng viên đều yêu cầu mẹ anh là chủ sử dụng đất phải có mặt để kiểm tra và cho ý kiến trực tiếp về việc công chứng. Thế nhưng mẹ của anh M. đang đau yếu phải nằm một chỗ và đây là lý do mà bà đã ủy quyền cho anh được thay mặt bà làm các thủ tục liên quan đến miếng đất.
Thấy đòi hỏi này của công chứng viên quá vô lý, anh M. thắc mắc thì được công chứng viên trả lời “Sở Tư pháp bảo phải làm vậy”. Thì ra theo Công văn số 627 ngày 23-5-2012 của Sở Tư pháp TP Đà Nẵng thì “trong mọi trường hợp, kể cả trường hợp có ủy quyền, các tổ chức hành nghề công chứng phải yêu cầu chủ sở hữu tài sản có mặt để kiểm tra và cho ý kiến trực tiếp khi ký hồ sơ công chứng”.
Khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Cá nhân… có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Như vậy, dù xuất phát từ lý do nào thì yêu cầu nêu trên của Công văn 627 cũng sai với Bộ luật Dân sự. Nếu có ủy quyền mà người chủ sở hữu tài sản vẫn phải trực tiếp tham gia vào các giao dịch dân sự do người được ủy quyền thay mặt họ xác lập thì khác nào hợp đồng ủy quyền chẳng có giá trị gì cả!
III- CÁC NỘI DUNG KHÁC
1. Báo Đại đoàn kết có bài Doanh nghiệp nhà nước: “Chúa chổm” của ngân hàng. Bài báo phản ánh: Đến thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đã có khoản dư nợ vay ngân hàng lên đến trên 415 nghìn tỷ đồng, trong đó riêng các tập đoàn kinh tế nhà nước đã chiếm tới trên 218 nghìn tỷ đồng. Đặc biệt, những tên tuổi lớn của nền kinh tế Việt Nam đều đã có mặt và "xếp thứ hạng cao” trong khối doanh nghiệp nhà nước này.
Bộ Tài chính cho biết, đến thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đã có khoản dư nợ vay ngân hàng lên đến trên 415 nghìn tỷ đồng, trong đó riêng các tập đoàn kinh tế nhà nước đã chiếm tới trên 218 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang rơi vào tình trạng mất cân đối tài chính, thua lỗ kéo dài, đặc biệt nguy hại cho nền kinh tế.
Trong đề án "Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước”, Bộ Tài chính đã đưa ra con số "khủng” về khoản dự nợ, trong đó khối tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp doanh nghiệp nhà nước chiếm một tỷ trọng rất lớn. Cụ thể, dư nợ vay ngân hàng của các doanh nghiệp nhà nước là 415.347 tỷ đồng, chiếm tới 16,9% tổng dư nợ tín dụng. Trong đó, 12 tập đoàn kinh tế của nhà nước đã có dư nợ lên tới 218.738 tỷ đồng, chiếm 8,76% tổng dư nợ toàn ngành ngân hàng và chiếm 52,66% dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước.
Những tên tuổi lớn của nền kinh tế Việt Nam đều đã có mặt và "xếp thứ hạng cao” trong khối doanh nghiệp nhà nước này. Đơn cử như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với dư nợ khoảng 72.300 tỷ đồng, Tập đoàn Điện lực VN với dự nợ khoảng 62.800 tỷ đồng, tiếp đến là các Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản với 20.500 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy với 19.600 tỷ đồng…
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cho biết, hiện có tới 30/85 tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ nợ phải trả cao gấp 3 lần so với số vốn chủ sở hữu. Đặc biệt nghiêm trọng hơn trong số này có tới 7 tập đoàn, tổng công ty có tỷ lệ này trên 10 lần, tập trung chủ yếu vào "nhóm giao thông”. Như Tổng công ty xây dựng công nghiệp, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8, Tổng công ty xăng dầu quân đội, Tổng công ty Thành An và Tổng công ty phát triển đường cao tốc Việt Nam.
Hiện nay, báo cáo thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, mức lỗ bình quân của một doanh nghiệp nhà nước cao gấp 12 lần so với doanh nghiệp ngoài nhà nước. Ví dụ như Tập đoàn Điện lực Việt Nam, năm 2010 lỗ 12.313 tỷ đồng, lũy kế hợp nhất 2010 là 24.262 tỷ đồng. Vinashin, năm 2009 lỗ 5.000 tỷ đồng theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, Tổng công ty Bưu chính Việt Nam lỗ năm 1.026 tỷ đồng... Tổng số lỗ lũy kế của các tổng công ty, tập đoàn đến ngày 31-12-2011 là trên 26 nghìn tỷ đồng.
2. Báo Công lý có bài Không đùn đẩy trách nhiệm trong việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng. Bài báo phản ánh: Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Nội vụ sáng nay (31-5) về việc bổ nhiệm Cục trưởng Cục Hàng hải Dương Chí Dũng.
Theo ông Tuấn, hiện Bộ Nội vụ đang phối hợp cùng Bộ GTVT tập trung làm rõ vấn đề này theo sự chỉ đạo của Thủ tướng, trên tinh thần là không đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Ông Tuấn không bình luận những thông tin đưa ra về việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng nhưng nhận xét, ở góc độ Bộ Nội vụ, việc xem xét bổ nhiệm một cán bộ vào một vị trí công tác thì căn cứ theo quy định của pháp luật là cốt yếu. “Tôi tin việc bổ nhiệm Cục trưởng Cục Hàng hải của Bộ trưởng Đinh La Thăng là tuân thủ các quy định hiện hành và không làm trái quy định”- ông Tuấn nói.
Trả lời câu hỏi của các nhà báo về việc ông Dương Chí Dũng trước khi được bổ nhiệm đã có nhiều điều tiếng nhưng vẫn được bổ nhiệm, và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bổ nhiệm này, Thứ trưởng Tuấn khẳng định: Không riêng trường hợp bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng mà với tất cả các quy trình bổ nhiệm phải xem xét cụ thể. Khi bổ nhiệm phải xem xét, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Những tiêu chuẩn, tiêu chí bổ nhiệm cán bộ có phù hợp quy định của pháp luật hay không và trách nhiệm của người bổ nhiệm cũng như người sử dụng CBCC thế nào trong sự bổ nhiệm đó