Trong buổi sáng ngày 22/9/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới có bài Quản lý giá xăng, dầu: Cơ chế điều tiết đã bộc lộ bất cập. Bài báo phản ánh: Những đợt điều chỉnh giá xăng, dầu thời gian qua đã tạo nên những luồng ý kiến trái ngược nhau. Các cơ quan nhà nước khẳng định, giá xăng, dầu trong nước đã được điều chỉnh đúng quy định, bảo đảm hài hòa lợi ích của 3 phía: doanh nghiệp (DN), Nhà nước và người tiêu dùng. Song thực tế, những biến động trên thị trường xăng, dầu và diễn biến kinh tế hiện nay đòi hỏi có một cơ chế quản lý giá phù hợp hơn, không những phải bảo đảm quyền và lợi ích của các bên liên quan mà còn tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội. Đây là nội dung được thảo luận tại hội thảo "Thị trường kinh doanh xăng, dầu: những vấn đề quản lý nhà nước và kinh doanh hiện nay" diễn ra ngày 21-9 tại Hà Nội.
Để quản lý giá xăng dầu, một trong những mặt hàng chiến lược có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh chính sách phù hợp với từng thời kỳ. Giai đoạn trước năm 1993, Nhà nước đã ban hành mức giá chuẩn với mặt hàng này, các DN kinh doanh đầu mối được quyết định giá bán là +/-10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt động. Từ năm 1993, quy định giá tối đa với xăng, dầu đã được Nhà nước ban hành, DN lúc đó được quyết định giá bán buôn, bán lẻ. Thông qua mức độ chịu đựng của nền kinh tế, Nhà nước chỉ điều chỉnh giá khi đã sử dụng hết các công cụ điều tiết giá. Cơ chế "giá tối đa" trong giai đoạn này không những bảo đảm được cung - cầu phục vụ nền kinh tế mà còn tạo ra nguồn thu ổn định cho Nhà nước và DN.
Song cơ chế này đã bộc lộ nhiều bất cập khi thị trường xăng, dầu thế giới biến động mạnh. Đầu những năm 2000, giá xăng, dầu thế giới thiết lập mặt bằng mới, cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Do thực hiện chính sách bù giá nên ngân sách phải bù lỗ mặt hàng này đã tăng từ 1.000 tỷ đồng (năm 2000) lên 22.000 tỷ đồng (năm 2008). Quyết định 187 (năm 2003) và Nghị định 55 (năm 2007) quy định về cơ chế điều hành, kinh doanh xăng, dầu của Chính phủ đã được ban hành, mở ra một giai đoạn mới về việc xây dựng thị trường kinh doanh xăng, dầu cạnh tranh.
Tuy nhiên, những diễn biến hiện nay đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước sớm ban hành một cơ chế quản lý giá xăng, dầu phù hợp hơn. Ông Bùi Ngọc Bảo, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam cho biết, cho đến nay, hai văn bản quy định về điều hành giá xăng, dầu nêu trên vẫn chưa đi vào thực tế. Biện pháp bù giá của Nhà nước mặc dù giúp giá xăng, dầu ổn định song lại khiến giá nội địa thoát ly giá thế giới trong một thời gian dài khiến cân đối ngân sách bị ảnh hưởng, DN thiệt hại; phần lớn người tiêu dùng không được thông tin đầy đủ nên thường xuyên có phản ứng sau mỗi lần điều chỉnh giá. TS Vũ Đình Ánh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả (Bộ Tài chính) nhận xét, việc can thiệp vào giá xăng đã và đang bộc lộ nhược điểm. Khi Nhà nước thực hiện bù lỗ, lúc giá thế giới xuống thấp, giá xăng nội địa không giảm mà lại tăng thuế suất thuế nhập khẩu; thậm chí lại bố trí để DN trả nợ khoản bù lỗ ngân sách. Khi giá thế giới lên cao thì giá trong nước lại tăng quá ít khiến Nhà nước phải cắt giảm nguồn thu, thậm chí vẫn phải bù lỗ cho DN. Như vậy, dù giá thế giới cao hay thấp, lợi ích của Nhà nước và người tiêu dùng vẫn bị ảnh hưởng.
Đề xuất quan điểm về một cơ chế điều hành giá phù hợp hơn, TS Vũ Đình Ánh cho rằng, nên xóa bỏ dần tình trạng độc quyền trong kinh doanh xăng dầu, bởi đây là yếu tố cơ bản giúp hình thành một thị trường lành mạnh. Cơ quan quản lý cần xóa bỏ việc hạn chế cấp phép nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu, tạo điều kiện cho các DN được cạnh tranh bình đẳng khi nhập khẩu. Bên cạnh đó, cần tách khâu nhập khẩu, bán buôn xăng, dầu với khâu bán lẻ để thương nhân được quyền chọn nhà cung cấp và cạnh tranh thông qua mức giá bán lẻ thấp nhất. Các cơ quan chức năng đang gấp rút hoàn thiện việc sửa đổi Nghị định 55 về kinh doanh xăng dầu, dự kiến sẽ ban hành trong tháng 10-2009. Với những nỗ lực của Nhà nước và DN, người tiêu dùng sẽ có cơ hội được mua xăng, dầu với mức giá hợp lý cũng như được công khai thông tin về việc hình thành giá bán lẻ, tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội.
2. Báo điện tử VnMedia phản ánh: Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 76/2009/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/11/2009.
Theo đó, về phụ cấp thâm niên nghề, sau 5 năm (đủ 60 tháng) tại ngũ hoặc làm việc liên tục trong ngành cơ yếu, hải quan, toà án , kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự, kiểm lâm thì được hưởng phụ cấp thâm niên nghề bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); từ năm thứ 6 trở đi mỗi năm được tính thêm 1% mỗi năm.
Một số chức danh lãnh đạo được bổ sung hệ số phụ cấp chức vụ là các chức danh lãnh đạo thuộc UBND thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại I gồm: Chủ tịch UBND có hệ số 0,95; Phó Chủ tịch UBND có hệ số 0,75; Chánh Văn phòng, Trưởng phòng cơ quan chuyên môn thuộc UBND có hệ số 0,50; Phó Chánh Văn phòng, Trưởng phòng cơ quan chuyên môn thuộc UBND có hệ số 0,30.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng bổ sung hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo đối với chức danh lãnh đạo cơ quan thi hành án dân sự thành phố và chức danh thanh tra thành phố thuộc tỉnh thuộc tỉnh là đô thị loại I. Nghị định sửa đổi hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo đối với chức danh Tư lệnh quân khu tại mục II bảng phụ cấp chức vụ từ 1,20 lên 1,25.
3. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 của Bộ Kế hoạch - đầu tư do Thứ trưởng Nguyễn Đức Hòa trình bày tại phiên họp toàn thể lần thứ 8 Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trong ngày 21-9 cho biết.
Cũng theo báo cáo của Thứ trưởng Nguyễn Đức Hòa, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp tổng hợp, đặc biệt là gói kích thích kinh tế, nên đã ngăn chặn được suy giảm, từng bước phục hồi kinh tế, an sinh xã hội được bảo đảm. Trong số 25 chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội đề ra trong năm 2009 dự kiến có 18 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, bảy chỉ tiêu không đạt kế hoạch.
Tăng trưởng kinh tế năm 2009 dự kiến từ 5-5,2%, vượt chỉ tiêu điều chỉnh mà Quốc hội đã thông qua, trong đó các khu vực nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ đều tăng từ 2,6-6,6%. Dự báo chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 có thể tăng khoảng 7%. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế tác động đến chất lượng tăng trưởng như ngành công nghiệp tăng trưởng thấp nhất trong nhiều năm qua, trong hoạt động du lịch khách quốc tế sụt giảm, xuất khẩu giảm nhiều so với năm 2008, nguy cơ lạm phát tiền tệ vẫn tiềm ẩn, tỉ lệ thất nghiệp, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động không đạt chỉ tiêu đề ra...
Tại hội nghị, các đại biểu đã đề nghị phân tích làm rõ hiệu quả của các chính sách giảm nghèo bởi theo báo cáo của Bộ Kế hoạch - đầu tư, dự kiến đến hết năm 2009, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 11%, nhưng theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số hộ đói lại tăng lên 21%. Điều này thể hiện chất lượng trong các chính sách giảm nghèo chưa cao.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Viết Ngoạn đề nghị Chính phủ có đánh giá cụ thể về chất lượng của công tác đầu tư và cho rằng Chính phủ cần đưa ra giải pháp hữu hiệu để cân bằng tỉ trọng trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Được biết, tại cuộc họp này, ngoài thẩm tra báo cáo của Chính phủ về đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội còn thẩm tra dự án Luật ngân hàng nhà nước (sửa đổi) và Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi), cho ý kiến vào quy hoạch phát triển ngành điện trong những năm tới. Dự kiến những nội dung này sẽ được Chính phủ trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 6 sắp tới.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Để quy định pháp luật không nằm trên giấy - Bài 1: Quy định... rối. Bài báo phản ánh: Một văn bản vừa ban hành đã phải sửa đổi. Một quy định được người dân rất ủng hộ nhưng loay hoay mãi vẫn chưa thể triển khai... Đó là tình trạng không hiếm gặp đối với văn bản quy phạm pháp luật hiện nay. Vì sao có tình trạng này? Làm thế nào để quy định pháp luật đi vào cuộc sống thuận buồm xuôi gió? Pháp Luật TP.HCM điểm qua một vài thực tế tại TP.HCM với mong muốn đưa đến bạn đọc cũng như các cơ quan quản lý một góc nhìn xây dựng.
Trong tháng 8, có hai quyết định của UBND TP.HCM bị trung ương có ý kiến. Một vài văn bản khác cũng gặp trở ngại khi triển khai thực hiện. Phải khẳng định rằng nội dung và mục đích của các văn bản này là rất cần thiết để quản lý một đô thị lớn như TP.HCM. Tuy nhiên, tình trạng nhiều văn bản ban hành rồi nhưng lại có những nội dung chưa phù hợp, phải gia hạn liên tục để sửa đổi, bổ sung, rồi chờ hướng dẫn thực hiện đã ít nhiều ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật.
Ngày 31-8, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) đã có công văn gửi UBND TP đề nghị xem xét một số nội dung của Quyết định 64/2009, ban hành ngày 31-7, về phê duyệt quy hoạch kinh doanh nông sản, thực phẩm trên địa bàn TP. Quyết định này có quy định: Các mặt hàng thịt gia súc, gia cầm tươi, đông lạnh; hàng thủy hải sản tươi, đông lạnh, khô, mắm; các loại rau, củ, quả tươi, đông lạnh... chỉ được bán tại các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và cửa hàng văn minh tiện lợi. Tuy nhiên, thế nào là cửa hàng văn minh tiện lợi thì quyết định không giải thích và cũng chưa có quy định nào nói về việc này. Vì vậy, khi triển khai thực hiện (từ ngày 10-8), không ít quận, huyện lúng túng.
Việc TP ban hành Quyết định 64 là hoàn toàn cần thiết, nhất là trong bối cảnh tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm đáng báo động hiện nay. Những trục trặc trong triển khai thực hiện là điều không mong muốn và Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thị Hồng đã chỉ đạo Sở Công thương chủ trì xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể để Quyết định 64 được triển khai trong thực tế.
Trước đó, đầu tháng 8, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch cũng có văn bản đề nghị UBND TP xem xét sửa đổi, bổ sung những điểm chưa phù hợp tại Quyết định 39/2009 quy định về hoạt động quảng cáo. Trong đó, Bộ chỉ rõ: Quy định “cấm quảng cáo trên các mặt bên ngoài phương tiện giao thông, phương tiện vận tải” trong Quyết định 39 là chưa phù hợp với quy định hiện hành. Việc quảng cáo trên các mặt ngoài phương tiện giao thông, phương tiện vận tải là hoàn toàn được phép và nhiều địa phương đã làm, riêng TP.HCM lại cấm là sai quy định.
Quyết định 88/2008 của UBND TP về thu phí rác thải và phí vệ sinh môi trường đối với chất thải rắn lại phải trì hoãn thời hạn có hiệu lực vì không tạo được sự đồng thuận. Quyết định này ban hành ngày 20-12-2008 và ngày có hiệu lực là 1-1-2009. Tuy nhiên, qua nhiều lần họp để triển khai quyết định, do nhiều nội dung vẫn còn gây thắc mắc như việc giao cho phường thu phí rác, tỷ lệ tiền thu phí trích lại cho phường... nên ngày có hiệu lực của văn bản được dời lại đến 1-5-2009.
Những tưởng sau một thời gian chuẩn bị khá dài, việc thực hiện những nội dung của Quyết định 88 sẽ trơn tru. Thực tế không phải vậy. Sau 1-5-2009, lực lượng thu gom rác dân lập vẫn còn nhiều ý kiến không đồng tình, dẫn đến tình trạng “đình công không gom rác”, khiếu nại đông người. Sở Tài nguyên và Môi trường TP phải tổ chức nhiều cuộc họp hướng dẫn để gỡ rối nhưng vẫn chưa êm.
Hiện TP giao sở này chủ trì nghiên cứu sửa đổi, hướng dẫn cụ thể những nội dung trong Quyết định 88. Việc thực hiện quyết định này ở các quận, huyện, phường, xã thì theo kiểu mạnh ai nấy làm, không làm cũng không sao.
Không rối rắm như Quyết định 88 nhưng Quyết định 74/2008 về quản lý và sử dụng vỉa hè cũng trong tình trạng chưa thể triển khai triệt để vì phải chờ hướng dẫn. Đây là quyết định được nhiều người dân đồng tình ủng hộ vì nó giải quyết nhu cầu cấp bách của họ trong sinh hoạt cũng như làm ăn buôn bán. Quyết định có hiệu lực từ đầu tháng 11-2008 nhưng phải chờ các quận, huyện lập danh mục các tuyến đường được phép sử dụng một phần vỉa hè, lòng lề đường để kinh doanh buôn bán, giữ và đậu xe. Mãi đến ngày 7-7-2009, danh mục này được công bố thì lại phải chờ hướng dẫn về thu phí. Đến nay việc thực hiện cũng rơi vào tình trạng tùy cơ ứng biến chứ chưa thể cấp phép thu phí như quyết định đề ra.
Báo cũng có bài “Luật bỏ quên người trong cuộc”. Bài báo phản ánh: Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) được ban hành kém chất lượng hoặc bất khả thi là ngoài ý muốn của cơ quan soạn thảo. Song với mật độ văn bản “đụng là rối” khá phổ biến như đã phản ánh trong số báo trước cho thấy: Việc thực hiện quy trình ban hành VBQPPL hiện nay có vấn đề!
Theo quy định, trước khi ban hành VBQPPL, cơ quan soạn thảo phải tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Tuy nhiên, thực tế hiện nay đa số các văn bản chỉ lấy ý kiến của quận, huyện, sở, ngành, còn đối tượng chịu sự tác động trực tiếp (chủ yếu là người dân) hầu như bị bỏ quên. Điều này thể hiện rõ trong các tờ trình gửi UBND TP để thông qua VBQPPL thường có dòng chữ: “Sau khi tổng hợp ý kiến của các sở, ngành, quận, huyện, sở A, B đã hoàn chỉnh dự thảo để trình UBND TP thông qua” chứ không có dòng chữ nào cho thấy bóng dáng của người dân ở trong đó.
“Quyết định 88/2008 về thu phí rác đụng chạm trực tiếp đến người thu gom rác dân lập nhưng chúng tôi không hề được lấy ý kiến trước khi ban hành” - ông Lê Dư Hoàng, Chủ nhiệm Nghiệp đoàn vệ sinh dân lập quận Bình Thạnh, cho biết. Theo ông Hoàng, trước khi quyết định này được ban hành, bản thân ông chỉ biết được thông tin qua báo chí phản ánh. “Khi quyết định ra rồi quận mới mời chúng tôi đến để triển khai. Trong quyết định có nhiều nội dung khiến chúng tôi thắc mắc như mức phí, người thu phí, đặc biệt là tỷ lệ tiền phí trích lại cho phường... Lúc này quận cùng với Sở Tài nguyên và Môi trường mới cho lấy ý kiến của chúng tôi. Văn bản ban hành rồi mới tổ chức lấy ý kiến chẳng khác nào đi ngược quy trình!” - ông Hoàng bày tỏ.
Ông Thái Nguyên Phương, Chủ tịch UBND phường 4 quận 10, cho rằng chính việc ra quyết định rồi mới để người dân bàn như vậy khiến cấp thực hiện rất khó triển khai.
Một nguyên nhân nữa khiến VBQPPL ban hành rồi khó triển khai là hầu hết các sở, ngành khi tổ chức góp ý các dự thảo văn bản đều rất... kín đáo. Các cơ quan soạn thảo thường lấy lý do chuyện chưa ngã ngũ, đang bàn bạc nội bộ, không nên đưa ra dư luận bàn tán dễ gây tâm lý bất an! Trong khi đó, Luật Ban hành VBQPPL 2008 quy định rõ: MTTQ và các tổ chức thành viên, tổ chức khác, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến dự thảo VBQPPL. Nơi chủ trì soạn thảo phải tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia góp ý.
UBND TP cũng có quy định các sở, ngành phải đưa dự thảo văn bản lên trang web của UBND TP, trang web của cơ quan soạn thảo và đăng trên các phương tiện thông tin để lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân. Nhưng thực tế tìm đỏ mắt trên các trang web này cũng không bói đâu ra dự thảo nào. Việc các sở, ngành chủ động đăng dự thảo trên các phương tiện thông tin lại càng hiếm hoi. Một thực trạng đáng buồn là dự thảo càng tác động trực tiếp đến nhiều người dân lại càng nằm trong vòng bí mật (ví dụ, đề án tăng giá nước sạch, thu phí vỉa hè, thu phí xe cá nhân...).
Không chỉ khó khăn trong việc lấy ý kiến bên ngoài mà ngay việc phối hợp, lấy ý kiến giữa các cơ quan hữu quan nhiều khi cũng rất nhiêu khê. Đây chính là một nguyên nhân để văn bản ra rồi nhưng triển khai xuống dưới thì gặp vướng mắc đủ chuyện.
Lãnh đạo một sở tâm sự: “Theo lệnh của UBND TP, lẽ ra dự thảo hướng dẫn thu phí vỉa hè theo Quyết định 74/2008 phải hoàn thành trong tháng 2-2009 để UBND TP xem xét trình HĐND TP thông qua tại kỳ họp vào đầu tháng 7 vừa rồi. Thế nhưng góp ý mãi tới giờ vẫn chưa ra. Một phần là do vấn đề này đụng chạm trực tiếp đến người dân nên cần bàn bạc kỹ. Mặt khác cũng do có một số đơn vị được sở gửi dự thảo lấy ý kiến không quan tâm lắm, không thấy hồi âm. Có khi sở phải gửi công văn nhắc lần hai, lần ba”.
Ngược lại, cũng có thực tế là các sở, ngành gửi dự thảo để lấy ý kiến các đơn vị quá gấp. Ông Trương Văn Non, Chủ tịch UBND quận Gò Vấp, kể: “Có khi quận, huyện nhận được dự thảo văn bản thì đã gần hết thời gian góp ý. Mà trong công văn xin mời góp ý thường quy định hết thời hạn đó nếu không có phản hồi xem như đồng ý. Quy định như vậy thì thà đừng gửi để tiết kiệm giấy mực!”. “Tại các cuộc họp góp ý dự thảo VBQPPL, thường lãnh đạo không dự mà cử chuyên viên đi. Nhưng một dự thảo họp góp ý nhiều lần mà nay cử chuyên viên này, mai cử chuyên viên khác dẫn đến ý kiến khác nhau, không thống nhất. Thêm vào đó, các chuyên viên đi họp thường không dám đưa ra đề xuất nên việc góp ý cũng không có kết quả” - bà Ung Thị Xuân Hương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp, nêu thêm một nguyên nhân khiến VBQPPL ban hành kém chất lượng.
Báo cũng có bài “Muốn chạy xe ôm phải xin phép?”. Bài báo phản ánh: Các địa phương tổ chức việc đăng ký, xác nhận đơn và cấp phù hiệu cho tổ chức, cá nhân sử dụng xe thô sơ, xe gắn máy... để vận chuyển hành khách, hàng hóa. Lực lượng công an tổ chức kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Đó là một số nội dung trong quyết định về điều kiện, phạm vi hoạt động của xe thô sơ, xe gắn máy và các loại xe tương tự để vận chuyển hành khách, hàng hóa do UBND tỉnh Thanh Hóa vừa ban hành.
Theo quyết định trên, từ ngày 1-11, những người muốn hành nghề xe ôm trên địa bàn tỉnh phải làm đơn đăng ký gửi UBND phường. Trong đơn, ngoài việc khai báo rõ nhân thân, chủ phương tiện hành nghề phải cam đoan chấp hành quy định về điểm đón trả khách, quy định về thời gian, phạm vi hoạt động và giá cước.
Quyết định của UBND tỉnh Thanh Hóa khiến dư luận rất ngạc nhiên. Tháng 3-2009, trong dự thảo thông tư hướng dẫn việc sử dụng xe thô sơ, xe gắn máy... và các loại xe tương tự để vận chuyển hành khách, Cục Đường bộ Việt Nam cũng từng đề xuất người hành nghề xe ôm phải làm đơn đăng ký. Tuy nhiên, do bị dư luận phản ứng gay gắt nên Cục Đường bộ phải rút lại đề xuất này. Ngày 23-6, bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) ban hành thông tư trên, trong đó quy định những người hành nghề xe ôm chỉ cần có biển hiệu hoặc trang phục phù hợp.
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Trịnh Tuấn Sinh, Phó Giám đốc Sở GTVT tỉnh Thanh Hóa, cho biết đã lấy ý kiến của ngành công an và tư pháp khi soạn thảo quyết định này. Hơn nữa, thông tư của Bộ GTVT cũng cho phép các tỉnh, thành căn cứ vào tình hình địa phương để đưa ra quy định phù hợp. Ông Sinh cho hay: “Trước mắt chúng tôi chỉ tập trung tuyên truyền để những người hành nghề thực hiện. Nhưng về lâu dài thì mọi người phải nghiêm túc chấp hành, ai vi phạm sẽ bị xử phạt theo quy định”.
2. Báo Dân trí điện tử có bài Nam Định: Khai toà vụ “tuồn” hơn 300 trẻ ra nước ngoài. Bài báo phản ánh: 16 bị cáo, trong đó 2 là Giám đốc các Trung tâm nuôi dưỡng trẻ, 14 trạm trưởng y tế xã ở Nam Định sẽ hầu toà ngày mai, 22/9. Tất cả bị cáo buộc thu gom hơn 300 trẻ, lập hồ sơ giả đưa ra nước ngoài làm con nuôi để trục lợi.
Cả 16 bị cáo đều bị truy tố về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Trần Thị Lương (SN1963, nguyên trưởng phòng văn hoá huyện Ý Yên), Giám đốc Trung tâm trợ giúp nhân đạo và dạy nghề cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của huyện Ý Yên và Vũ Đình Khản ((SN 1955, trưởng trạm y tế xã Việt Hùng), Giám đốc Trung tâm bảo trợ xã hội huyện Trực Ninh, được xác định giữ vai trò chủ đạo trong vụ án.
Cơ quan điều tra xác định từ năm 2005 đến tháng 7/2008, khi vụ việc bị phát hiện, 2 Trung tâm này là địa điểm thu gom trẻ em từ các nguồn khác nhau, tổ chức làm giả hồ sơ “trẻ bị bỏ rơi” cho các cháu từ các trạm y tế cơ sở rồi đưa ra nước ngoài làm con nuôi, trục lợi bất chính.
Giám đốc Trung tâm Ý Yên đã thu gom được 112 trẻ, “xuất” trót lọt 101 cháu.. Giám đốc trung tâm Trực Ninh có “thành tích” cao hơn với 242 trẻ được thu gom về và 222 bé đã được đưa ra nước ngoài làm con nuôi.
Trong số 323 trường hợp, cơ quan công an đã xác định được 266 trường hợp là hồ sơ giả để hợp thức hoá nguồn gốc trẻ. Một số bị cáo đóng vai nguồn cung cấp trẻ em chủ chốt cho các Trung tâm này là: Trương Công Lịch (SN 1973, Trạm trưởng y tế xã Yên Lương, Ý Yên), trực tiếp làm giả 24 hồ sơ, hướng dẫn các đồng nghiệp khác làm 38 hồ sơ; Vũ Đình Lợi (SN 1974, Trạm trưởng y tế xã Yên Tiến, Ý Yên), nhúng tay vào 21 trường hợp; Trần Trọng Lãm (SN1955, trú lại thành phố Nam Định) cung cấp 31 trẻ cho 2 trung tâm…
Việc làm giả hồ sơ được xác định diễn ra trong thời gian dài, đối tượng nào cũng trục lợi một khoản tiền từ vài triệu đến vài chục triệu đồng, làm ảnh hưởng đến chính sách con nuôi của Việt Nam.
Với 2 tình tiết định khung tăng nặng: phạm tội nhiều lần và gây hậu quả nghiêm trọng, cả 16 bị cáo cùng bị truy tố ở khoản 2 Điều 281 - BLHS với khung hình phạt từ 5-10 năm tù giam. Do có yếu tố nước ngoài, phiên sơ thẩm sẽ do toà án cấp tỉnh tiến hành xét xử. Dự kiến, phiên xử diễn ra 5 ngày với hàng chục cán bộ, quan chức từ công an tới cơ quan tư pháp, chính quyền được triệu tập để làm rõ vụ án.
3. Báo điện tử Vietnamnet có bài Dân góp ý luật, chính quyền phải phản hồi. Bài báo phản ánh: Theo bà Dương Thị Thanh Mai, chuyên gia Bộ Tư pháp, việc tham vấn ý kiến người dân nếu không tính toán kỹ sẽ dễ rơi vào hình thức. Còn TS Tim McGrath, cố vấn quốc tế của UNDP thì cho rằng việc tham vấn ý kiến tạo cơ hội cho người dân được nói, được bàn về những vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
Bà Mai và Tim McGrath phát biểu tại hội thảo trao đổi kinh nghiệm lập pháp và giám sát giữa Việt Nam, Lào, Campuchia trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Hội thảo do Ban công tác đại biểu Quốc hội, dưới sự tài trợ của UNDP, tổ chức tại Vũng Tàu từ 21 - 23/9. Trong ngày đầu tiên, đại biểu Quốc hội ba nước đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm về quy trình và kinh nghiệm lập pháp.
Lấy ý kiến người dân là một trong sáu bước của quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam. Một nghiên cứu của TS Nguyễn Sĩ Dũng và Nguyễn Đức Lam cũng chỉ ra, việc tham vấn công chúng sẽ mang lại những lợi ích nhãn tiền: Ban soạn thảo sẽ có nhiều lựa chọn chính sách hơn, việc lựa chọn phương án được minh bạch hơn. Tham vấn công chúng cũng khuyến khích người dân tuân thủ pháp luật. Mặt khác, sẽ làm cho chính phủ quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu, lợi ích công chúng. Tuy nhiên, các quy định về việc tham vấn ý kiến còn chưa rõ ràng, hạn chế rất nhiều quyền tham gia của người dân vào việc hoạch định các chính sách liên quan đến chính họ.
Bà Mai khuyến cáo: "Tham vấn là việc làm rất tốn kém, mất thời gian, nếu làm không cẩn thận sẽ rơi vào hình thức". Quy trình này cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt. Ban soạn thảo phải đưa lên trang thông tin "ngay khi các văn bản còn ở dạng phác thảo", sau đó trực tiếp tổ chức lấy ý kiến các cơ quan liên quan. Mọi góp ý của người dân đều phải được phân loại và đưa vào bảng phân tích đánh giá tác động kinh tế - xã hội.
TS Tim McGrath nói: "Chỉ khi người dân được bàn bạc và nhận được những phản hồi từ chính quyền, họ mới có niềm tin rằng những thông tin họ cung cấp tại các cuộc tham vấn có tác động đến việc hoạch định chính sách".
Các ủy ban của QH đã phối hợp cùng dự án tăng cường năng lực cho các cơ quan đại diện ở Việt Nam của UNDP soạn thảo quy trình tham vấn ý kiến nhân dân và đã thực hiện thí điểm ở một số địa phương. Từ đây sẽ đưa ra bộ công cụ tham vấn hiệu quả, quy trình tham vấn chuẩn mực đối với điều kiện Việt Nam.
Các nghị sĩ Campuchia cũng chia sẻ nhiều kinh nghiệm thiết thực từ hoạt động của Nghị viện Campuchia. Nghị sĩ H.E. Ich Sarou cho hay, mỗi dự án luật của nước bạn từ khi ban soạn thảo gửi đến Quốc hội cho tới khi được thông qua phải mất ít nhất mười tháng, thậm chí có dự luật được xem xét tới ba năm.
Ông Ich Sarou cho hay, các ủy ban chức năng của Quốc hội sau khi nhận được dự thảo luật sẽ chuyển đến tất cả thành viên, từng nghị sĩ sẽ phải cho ý kiến vào dự thảo luật. Khâu tiếp theo là chuyển đến toàn thể các đại biểu QH khác. Nghị sĩ ở từng địa phương sẽ phải tiếp xúc với người dân, lắng nghe ý kiến và phải có đầy đủ lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình khi góp ý cho các dự án luật.
Việc lấy ý kiến chuyên gia cũng như gửi toàn văn dự thảo lấy ý kiến nhân dân cũng phải được thực hiện theo đúng quy trình.
Ủy viên Ủy ban Pháp luật Ly Son bổ sung, Chính phủ Campuchia có riêng một Hội đồng tư vấn pháp luật để giúp Chính phủ thẩm định các dự thảo luật. Khác với Việt Nam, mọi dự án luật khi trình ra Quốc hội trước khi thông qua đều phải có chữ ký của Thủ tướng.