Trưởng Văn phòng Thừa phát lại Hà Đông Bùi Trọng Hào: Cần xây dựng Luật Thừa phát lại

14/08/2015
Văn phòng Thừa phát lại (TPL) Quận Hà Đông là một trong 5 Văn phòng TPL đầu tiên được thành lập tại thành phố Hà Nội. Đạt những thành công bước đầu song vì là chế định mới nên quá trình thực hiện cũng còn những vướng mắc. Phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Bùi Trọng Hào, Trưởng VP TPL Hà Đông.

Với lợi thế của 1 trong những Văn phòng TPL đầu tiên của thủ đô, hẳn sau thời gian thí điểm, VP cũng đã được nhiều người biết đến và sử dụng các dịch vụ của TPL ?

Ngoài sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, Sở Tư pháp, sự phối hợp chặt chẽ với các ngành, bản thân Văn phòng cũng nỗ lực trong việc tuyên truyền để người dân biết đến chế định TPL. Sau thời gian hoạt động, đến nay Văn phòng đã tống đạt được là 4500 văn bản với chất lượng khá tốt, đáp ứng yêu cầu về mặt thời gian, thủ tục và chưa để xảy ra sai sót nào về mặt nghiệp vụ. Chúng tôi cũng đã lập được 281 vi bằng theo yêu cầu của khách hàng đảm bảo chất lượng, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, chưa có vi bằng nào bị Sở Tư pháp từ chối. Các loại vi bằng thì đa dạng phong phú như lập vi bằng giao tiền, vi bằng ghi nhận hiện trạng, vi bằng kiểm kê tài sản của Ngân hàng, vi bằng về bồi thường thiệt hại và các vi bằng phục vụ cho các doanh nghiệp như vi bằng ghi nhận việc xâm phạm bản quyền…. Văn phòng đã ký 8 Hợp đồng xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của khách hàng, đã có kết quả 12 việc. Trong 1 năm hoạt động, Văn phòng đã ký được 3 Hợp đồng Thi hành án với khách hàng…

Nhưng do còn mới mẻ với nhiều người dân, kể cả các cơ quan tổ chức nên chắc trong quá trình hoạt động TPL cũng gặp những khó khăn?

Đúng vậy. Đơn cử như trong hoạt động lập vi bằng, người dân chưa nhận thức được đúng giá trị pháp lý của vi bằng. Lối suy nghĩ truyền thống đã tồn tại từ lâu, không có thói quen tạo lập chứng cứ, lưu trữ các văn bản, tài liệu, chứng cứ trong các giao dịch của mình; hướng dẫn về các trường hợp từ chối đăng ký vi bằng dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất. Vì vậy tạo ra rất nhiều khó khăn tiềm ẩn rủi ro cho hoạt động lập vi bằng đang là nhu cầu lớn và thiết thực của người dân. Hay việc thiếu hợp tác của chính quyền địa phương trong việc tống đạt văn bản giấy tờ làm cho TPL gặp nhiều khó khăn. Việc thiếu thông tin về địa chỉ của đối tượng nhận tống đạt, thông tin địa chỉ của người nhận tống đạt sai. Trong nhiều văn bản tống đạt thường chỉ ghi thông tin địa chỉ của đối tượng nhận tống đạt rất chung chung (không có thông tin cụ thể về số nhà, cũng như thông tin về nhân thân của người nhận tống đạt) điều này gây rất nhiều khó khăn trong việc xác minh địa chỉ. Ngoài ra còn những khó khăn như mức giá chi phí tống đạt được tính theo Công văn số 138/TANDTC-KHTC của Tòa án nhân dân tối cao hiện nay là thấp, những tháng đầu Văn phòng phải bù lỗ trong khâu thực hiện tống đạt.

Bên cạnh đó, việc thực hiện xác minh thi hành án cũng gặp phải khó khăn do sự thiếu hợp tác, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp thông tin về tài sản thi hành án. Cụ thể, các cơ quan, tổ chức này từ chối hoặc rất chậm chễ trong việc cung cấp thông tin xác minh. Thậm chí, có trường hợp họ khẳng định yêu cầu cung cấp thông tin của TPL là không có căn cứ pháp lý vì TPL không phải là cơ quan nhà nước. Việc trả lời kết quả xác minh của một số cơ quan, tổ chức cũng không có dấu xác nhận của các cơ quan, tổ chức này, điều này gây khó khăn cho Văn phòng trong việc trả lời kết quả xác minh cho khách hàng….

Khó khăn của TPL Hà Đông hẳn là khó khăn chung của nhiều Văn phòng TPL hiện nay. Vậy từ hoạt động thực tế của mình, ông có đề xuất gì?

Tôi cho rằng cần đẩy nhanh việc nghiên cứu và có lộ trình cụ thể xây dựng Luật về TPL làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động của TPL phát triển một cách tích cực. Cần quy định địa vị pháp lý của TPL trong các văn bản pháp luật như Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án và các văn bản pháp luật khác… Khi sửa đổi các văn bản pháp luật này thì cần bổ sung ngay các quy định liên quan đến TPL để đảm bảo địa vị pháp lý của TPL. Xây dựng quy chế phối hợp giữa TPL, Văn phòng TPL với hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến tổ chức và hoạt động của TPL, tạo điều kiện thuận lợi cho Văn phòng TPL hoạt động tốt góp phần thực hiện thành công chủ trương của Đảng trong việc cải cách tư pháp.

Chúng tôi cũng mong muốn có nhiều hoạt động thiết thực hơn trong tuyên truyền về TPL, cần tổ chức những khóa đào tạo, bồi dưỡng, các buổi hội thảo, tọa đàm để các Văn phòng TPL được tập huấn, trau dồi, chia sẻ kinh nghiệm giúp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; có cơ chế chính sách hỗ trợ cho TPL trong giai đoạn còn nhiều khó khăn này.

Xin cảm ơn ông!

Thu Hằng