Một vài nét sơ lược về quy định pháp luật hòa giải ở Việt Nam

05/12/2018
Thể chế hòa giải được hình thành dựa trên cở sở kinh tế, xã hội, cũng như xuất phát từ chính yêu cầu giải quyết mâu thuẫn của cuộc sống, cũng như xuất phát từ sự đoàn kết trong nhân dân, nó chịu sự tác động sâu sắc của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội đương thời[1]. Và để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, chế định hòa giải luôn được phát triển, hoàn thiệnqua mỗi thời đại, mỗi thể chế chính trị. Điều này được thể hiện khá rõ trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, cụ thể:
 
  1. Trong pháp luật phong kiến thời Hậu Lê:
 - Trong lệnh về xét xử việc anh em ruột tranh giành kiện tụng được vua Lê Thánh Tông ban bố ngày 20/7/1476 (năm Hồng Đức thứ 7) có quy định: "Quan cai trị thường xem nhân tài giỏi hay kém thì biết đời sống nhân dân sướng hay khổ, muốn cho việc kiện tụng giảm bớt đều do xã trưởng khuyên giải…"[2]
- Trong Chỉ dụ của vua Lê Huyền Tông có ghi: “Riêng các xã trưởng, nếu trong làng có sự tranh tụng, phải vô tư phân xét và hòa giải. Không được xui nguyên giục bị rồi lại tự nắm lấy việc phân xử. Cũng không được tự đặt ra những luật lệ riêng rồi dựa vào những luật lệ ấy mà chiếm đoạt tài sản khiến cho các nạn nhân phải bán nhà đất cho khánh kiệt, cô lập họ, không cho tham dự các buổi tập họp, hội hè mà trái phép nước”[3].
Đến nhà Lê Trung Hưng bao gồm 16 vị vua là: Lê Trang Tông, Lê Trung Tông, Lê Anh Tông, Lê Thế Tông, Lê Kính Tông, Lê Thần Tông, Lê Chân Tông, Lê Huyền Tông, Lê Gia Tông, Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông, Lê Đế Duy Phương, Lê Thuần Tông, Lê Ý Tông, Lê Hiển Tông và Lê Mẫn Đế (Lê Chiêu Thống), các vấn đề liên quan đến hòa giải như thẩm quyền, trình tự, thủ tục hòa giải ngày càng được quy định rõ ràng hơn:
+ Trong cuốn Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử diễn giải, quyển thứ hai, giáo sư thực thụ Đại học Luật khoa Sài Gòn Vũ Văn Mẫu có viết: "Người làm chức huyện lịnh… phải lưu tâm đến việc giáo hóa, dạy dân giữ đạo luân thường; làm cha phải hiền, làm con phải hiếu, làm anh phải thảo, làm em phải kính, vợ kính chồng, ty ấu tôn kính bậc trưởng tôn. Phàm những điều ngỗ nghịch, bất hiếu, du đảng và gian dâm được dùng roi vọt mà trừng giới khiến cho nhân nghĩa, lễ nhượng được thịnh hành, bỏ cái thói tố giác và bới móc cốt lấy sự giảm từ tụng làm gốc, hoặc khi có người nào, vì sự phẫn oán do tức khí đem nhau đi kiện hoặc vì cớ rất nhỏ mà cùng nhau tranh dành không đoái gì đến lẽ phải, thì nên hiểu dụ khuyên răn mà đuổi về chứ không được đòi tiền tài, lấy tiền đảm lễ (tụng phí) để sinh ra mối kiện. Còn đến các việc hộ hôn, điền thổ và nhân mạng, cùng khi trong dân xã có phái cậy nhiều người ăn hiếp phái ít người hay cậy là cường hào ăn hiếp kẻ cô quả, sinh ra việc kiện to, thì thế bất đắt dĩ mới phải tra xét…"... "Nếu người dân nào, vì một cớ nhỏ mà tức khí đi kiện đến quan huyện, viên này đã khuyến dụ và phân xử rồi, thế mà nguyên đơn còn không phục tình, cố kiện lên phủ, thì quan phủ phải lấy lời lẽ để hiểu dụ hòa giải để nguyên đơn phục tình, ấy là một cách dẹp bớt mối thưa kiện (đường dĩ thiện từ hòa giải, sử phục kỳ tình, diệc tức tung chi nhất đoan)"[4].
+ NămVĩnh Thịnh thứ 14, vua Lê Dụ Tông ban hànhbộ "Quốc triều khám tụng điều lệ", trong đó có quy định: "Mọi việc về tạp tụng như phần biếm về ngôi thứ, chửi mắng đòi tiền nợ, bên kiện nếu có thuận tình, khám quan cũng phải chiếu lệ cho cung hòa cung thuận để ngừng việc kiện bớt phí tổn cho dân, không được lạm sách tiền lệ trầu cau…."[5].
Năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1715), trong Thông sức của Ngự sử đài có quy định: “Các Huyện lệnh được trao cho trách nhiệm gần dân, lời kêu của hai bên lúc đầu đều đã qua mình xét đoán; bấy giờ lòng tranh tức của hai bên chưa phân, phí tổn theo kiện chưa mấy, còn có thể đem lẽ phải vạch cho họ hiểu, khuyên đi bảo lại khiến hai bên hòa giải, đó cũng là một cách làm cho thôi kiện”[6].
+ Năm Bảo Thái thứ năm, vua Lê Dụ Tông chuẩn định lệ cho người kiện cung hòa như sau: "Phàm việc kiện tụng về ruộng đất, tiền nợ, nếu là việc nhỏ, không cần đến luật hình, mà đôi bên thuận tình hòa hưu mới cho phép, không được ép, dụ dỗ làm tờ cung hòa, để tránh sự thay đổi"[7]
 Cũng theo Từ tụng điều lệ thì thể thức hòa giải được tiến hành như sau: "Hoàng hiệu... ngày… tháng… năm… người kiện ở xã… huyện… phủ… là Nguyễn… trình về việc ngày… tháng… năm nay có đơn kiện Nguyễn… về việc… tại nha môn… (hoặc đã tra khám hoặc chưa tra khám). Nay tôi tình nguyện giải hòa, xin đình chỉ việc kiện tụng, mọi việc đều không khiếu nại. Nay Nguyễn giáp đã giải hòa, thì xin đình chỉ việc kiện tụng, nếu sau này tôi không theo đúng tờ hòa giải, lại đến kiện cáo sinh chuyện thì y theo luật trị tội. Nước có pháp luật cho nên lập tờ hòa giải làm 3 bản, nha môn lưu 1 bản, 2 bên mỗi bên giữ 1 bản, để đối chiếu làm bằng. Nay cam kết, 2 bên cùng ký"[8].
Ngoài ra, vấn đề hòa giải còn được quy định khá chặt chẽ trong các bản hương ước[9]. Ví dụ như:
+ Tại Điều 10 Khoán ước của xã Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai (nay thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội) được lập ngày 21 tháng Giêng năm Vĩnh Hựu (1739) đời vua Lê Ý Tông có ghi: Bản xã có người nào đánh nhau chửi nhau, cho phép trình báo các chức sắc hàng xã để khuyên giải phân xử phải trái. Nếu như người nào không làm theo như thế, mà lại đem bẩm báo lên nha môn, khi xét xử thấy đúng như lời khuyên giải phân xử của hàng xã, thì bắt phạt người ấy 3 quan tiền cổ. Nếu ai không trình báo với các hàng chức sắc ở xã để phân xử phải trái, lại bẩm báo thẳng lên quan trên thì cũng xử phạt như thế[10].
+ Theo Điều thứ 60, Điều thứ 61 Khoán ước làng Đông Ngạc (nay thuộc quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) được soạn năm 1937 thì: Trong làng có ai kiện cáo về dân sự hay thương sự trước hết phải trình hội đồng hòa giải, nếu ai không tuân mà tự tiện vào trình quan ngay thì hội đồng sẽ phạt 0$,20 đến 1$,00. Viên Chánh hương hội tiếp ai trình thì phải mở hội đồng, lấy lẽ chính đáng và tình thân ái hòa giải cho hai bên, nếu hòa giải xong thì cứ theo trong luật mà làm hòa giải, chứng thư giao cho lý trưởng trình quan sở tại[11].
+ Tại Điều 73 bản hương ước của làng Quỳnh Đôi có ghi: Trong làng cốt lấy sự không kiện nhau là quý, phàm ai có sự gì uất ức phải trình làng để làng xét xử, không được đưa nhau đi kiện ở quan. Nếu làng xét xử không được rõ ràng công bằng thì mới đưa nhau đến quan xử, quan xử y như làng xử thì làng phạt lợn 1 con giá là 3 quan. Nếu không trình làng đi kiện ở quan, làng cũng phạt như vậy[12].
b) Trong thời kỳ Pháp thuộc: Chế định hòa giải được quy định tại "Bộ Bắc Kỳ pháp viện biên chế". Theo đó, hòa giải được coi là một giai đoạn bắt buộc khi giải quyết các việc hộ và thương sự.
c) Thời kỳ sau năm 1945 đến nay
Tại Điều thứ 1 Sắc lệnh số 03/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc giữ nguyên tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc nước Việt Nam quy định: "Cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này". Trước các tòa án ở Nam bộ và ba thành phố Hà nội, Hải phòng và Đà nẵng sẽ áp dụng thủ tục ấn định trong nghị định ngày 16/3/1910 của nguyên Toàn quyền Đông dương và những nghị định sửa đổi nghị định ấy.
Tiếp đó, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về cách tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại khoản 1 Điều thứ 3 của Sắc lệnh quy định, Ban tư pháp xã có quyền hoà giải tất cả các việc dân sự và thương sự. Nếu hoà giải được, ban tư pháp có thể lập biên bản hoà giải có các uỷ viên và những người đương sự ký.
Tiếp đến, tại Điều thứ 4 của Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về ấn định thẩm quyền của các tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong tòa án quy định, Ban tư pháp xã hoà giải tất cả các việc hộ và thương mại do các người đương sự muốn mang ra trước ban tư pháp ấy.
Biên bản hoà giải thành chỉ có hiệu lực tư chứng thư.
Cùng với chế định hoà giải của Ban Tư pháp xã là chế định hoà giải của Toà án. Cụ thể, theo Điều thứ 9 và Điều thứ 12 của Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 thì khi nhận được đơn kiện về dân sự hay thương sự, ông thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử làm hòa giải. Biên bản hòa giải có hiệu lực công chứng thư. Đối với những việc dân sự và thương sự thuộc về thẩm quyền của tòa án đệ nhị cấp[13] đều phải giao trước về cho ông thẩm phán sơ cấp hòa giải.
Cùng với sự phát triển của Nhà nước và pháp luật Việt Nam, chế định hòa giải cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Và đến thời điểm hiện nay, trên thực tế ở nước ta tồn tại 02 hình thức hòa giải là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng, cụ thể:
- Hòa giải trong tố tụng là hình thức hòa giải được tiến hành tại Tòa án nhân dân khi giải quyết các tranh chấp theo yêu cầu của các bên đương sự. Phạm vi, thẩm quyền, trình tự thủ tục hòa giải được quy định cụ thể trong pháp luật về tố tụng, cụ thể:
+ Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, vấn đề này được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại Điều 10 của Bộ luật quy định một trong các nguyên tắc trong tố tụng dân sự là: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Nguyên tắc hòa giải, phạm vi hòa giải được quy định cụ thể từ Điều 205 đến Điều 213 của Bộ luật. Theo đó, phạm vi hòa giải là những tranh chấp được quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS 2015, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 của BLTTDS 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Về bản chất thủ tục, đây là bước đầu tiên trước khi xét xử và được tiến hành dưới sự hướng dẫn của thẩm phán thụ lý vụ việc. Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên.Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.
+ Trong lĩnh vực pháp luật hình sự, lần đầu tiên Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về chế định “hòa giải tại cộng đồng”. Theo quy định của Bộ luật thì hòa giải tại cộng đồng được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp: (i) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này; (ii) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này. Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải tại cộng đồng được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 426, Điều 428).
Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 29 của Bộ luật thì người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải (có thể các bên tự thương lượng, hòa giải với nhau hoặc hòa giải thông qua một tổ chức hòa giải trung gian như tổ hòa giải ở cơ sở) và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
- Hòa giải ngoài tố tụng là hình thức hòa giải được thực hiện bởi một bên trung gian, độc lập trước khi tranh chấp được đưa đến cơ quan tư pháp. Hiện hình thức hòa giải này được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau:
+ Hòa giải ở cơ sở: Được điều chỉnh bởi Luật hòa giải ở cơ sở 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Theo quy định tại Điều 3 của Luật hòa giải ở cơ sở thì việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp: (a) Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; (b) Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải; (c) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính; (d) Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định pháp luật.[14]
Về bản chất thủ tục thì, hòa giải ở cơ sở mang bản chất “xã hội” hơn là pháp lý. Tuy nhiên, theo quy định tại Chương XXXIII BLTTDS năm 2015 thì kết quả hòa giải thành ở cơ sở có thể được Tòa án công nhận. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.
+ Theo quy định của pháp luật đất đai (Luật đất đai 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP), loại hòa giải này bao gồm hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và hòa giải ở cơ sở. Tại Điều 202, 203 Luật đất đai 2013 quy định, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Thủ tục hòa giải tranh chấp đất tại Ủy ban nhân dân cấp xã được quy định cụ thể tại Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, khoản 57 Điều 2 Nghị định số 01/2014/NĐ-CP như sau:
“1. Khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện các công việc sau:
a) Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất;
b) Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
c) Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai th́ được coi là việc hòa giải không thành.
2. Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, gồm có các nội dung: Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải; thành phần tham dự hòa giải; tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp (theo kết quả xác minh, tìm hiểu); ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai; những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận, không thỏa thuận.
Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
3. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các bên tranh chấp có ý kiến bằng văn bản khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành thì Chủ tịch Ủy bannhân dân cấp xã tổ chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải quyết đối với ý kiến bổ sung và phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành.
4. Trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới sử dụng đất, chủ sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải thành đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định tại Khoản 5 Điều 202 của Luật Đất đai.
Trường hợp hòa giải không thành hoặc sau khi hòa giải thành mà có ít nhất một trong các bên thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo.”
+ Hòa giải của trọng tài thương mại: Được quy định cụ thể tại Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017. Theo quy định tại Điều 2 của Nghị định thì phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại gồm: (i) tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại.
+ Hòa giải trong lĩnh vực lao động: được quy định của Bộ luật lao động năm 2012 (Chương XIV. Giải quyết tranh chấp lao động). Theo quy định tại khoản 2, 6 Điều 194 BLLĐ thì việc giải quyết tranh chấp lao động phải đảm bảo nguyên tắc bảo đảm thực hiện hoà giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật; và Việc giải quyết tranh chấp lao động do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tiến hành sau khi một trong hai bên có đơn yêu cầu do một trong hai bên từ chối thương lượng, thương lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên không thực hiện.
Theo đó, đối với tranh chấp lao động cá nhân thì cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết là hòa giải viên lao động và Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;  về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thì không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải.
Đối với tranh chấp lao động tập thể được chia thành 02 loại: (1) Tranh chấp lao động tập thể về quyền do Hoà giải viên lao động; hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện); hoặc Toà án nhân dân giải quyết (2) Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích do Hoà giải viên lao động; hoặc Hội đồng trọng tài lao động giải quyết.
Trình tự, thủ tục hòa giải được quy định cụ thể tại các Điều 201, 204 BLLĐ 2016.
+ Hòa giải, đối thoại tại Tòa án: được thực hiện theo Kế hoạch số 301/KH-TANDTC ngày 01/10/2018 tiếp tục và mở rộng thực hiện thí điểm tại Hải Phòng và các tỉnh, thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bình Dương, Long An.
Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao thì ngay sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án dân sự, đơn khởi kiện vụ án hành chính và tài liệu, chứng cứ kèm theo (sau đây gọi tắt là hồ sơ vụ việc), Bộ phận hành chính - tư pháp của Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn và chuyển đơn khởi kiện cho Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, trừ những trường hợp không được hòa giải, đối thoại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính hoặc khi nộp đơn khởi kiện, có ý kiến không đồng ý hòa giải, đối thoại tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Trường hợp qua hòa giải, các bên thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết và nếu có yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết việc dân sự về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp không có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì hồ sơ vụ việc, Biên bản hòa giải thành được chuyển cho Tòa án để trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
Trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và yêu cầu Tòa án công nhận thì Hòa giải viên giải thích cho họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thành đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Đồng thời, Hòa giải viên báo cáo Giám đốc Trung tâm phân công Thẩm phán tham gia chứng kiến việc lập biên bản và ký tên vào Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận việc nuôi con và chia tài sản do Hòa giải viên lập.
Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và các biên bản cho Tòa án. Tòa án xem xét nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Chương XXIII và Chương XXVIII của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Thẩm phán (đã được phân công tham gia chứng kiến và ký tên vào các biên bản) thụ lý ngay việc dân sự. Sau khi thụ lý, Thẩm phán kiểm tra hồ sơ nếu xét thấy việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập các biên bản mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán phải ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự (Thẩm phán không tiến hành hòa giải lại).
Trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Đối thoại viên lập biên bản về việc cam kết của họ. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho Trung tâm quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Trung tâm văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời hạn này mà một trong các bên không thực hiện cam kết của mình thì Đối thoại viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển ngay hồ sơ vụ việc và Biên bản đối thoại cho Tòa án để xem xét thụ lý, giải quyết theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Cũng từ thực tiễn công tác hòa giải thời gian qua cho thấy[15], chế định hòa giải ngày càng phát huy được vai trò, ý nghĩa nhân văn sâu sắc của nó thông qua việc trực tiếp giải quyết tận gốc rất rất tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột xã hội, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; hạn chế đơn thư, khiếu kiện, tiết kiệm thời gian và tiền bạc của cơ quan nhà nước và Nhân dân, đồng thời thông qua quá trình hòa giải đã góp phần truyền bá, hình thành trong mỗi công dân ý thức thượng tôn pháp luật.
Lg. Vũ Nguyên
 
 
 
[1]Trần Văn Quảng, Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - cơ sở lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr. 57.
[2]Hồng Đức thiện chính thư, Viện nghiên cứu Hán nôm, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Một số văn bản điểu chế và pháp luật Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, 2006, tr. 481.
[3]Toan Ánh, Trích theo “Nếp cũ làng xóm Việt Nam”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 228
[4]Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử diễn giải, quyển thứ hai, Sài gòn, 1975, tr. 235 - 236.
[5]Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỉ XVII - XVIII, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 327
[6]Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương loại chí, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr. 299-300.
[7]Như trên đã dẫn, tr.122
[8]Từ tụng điều lệ, Viện nghiên cứu Hán nôm, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Một số văn bản điểu chế và pháp luật Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, 2009, tr. 256
[9] Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Hương ước là những quy ước, điều lệ của một cộng đồng chung sống trong một khu vực. Là bản pháp lý đầu tiên của các làng xã nhằm góp phần điều hòa các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng. Tuy vậy "hương ước" chỉ là danh từ chung để chỉ các quy ước của làng xã, thực tế hương ước còn được gọi bằng những tên khác như: hương biên, hương khoán, hương lệ khoán ước, khoán lệ, cựu khoán tục lệ, điều ước, điều lệ. Các nhà nghiên cứu về văn hóa thôn, làng Việt Nam đã đúc kết: Hương ước của làng có thể xem như là một hệ thống luật tục, tồn tại song song nhưng không đối lập với pháp luật của quốc gia.
[10]Tài liệu tập huấn cho hòa giải viên, Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2006.
[11]Như trên đã dẫn.
[12]Trần Từ, Cơ cấu làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979.
[13] Chung thẩm: những án của tòa án sơ cấp bị kháng cáo; Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá, hôm khởi tố hay theo văn tự không quá 150 đ; Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450 đ nhưng dưới 750 đ.
 Sơ thẩm: Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá, hôm khởi tố, hay theo văn tự trên 150 đ; Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 750 đ; Những việc kiện không thể định trước được giá ngạch; Những việc kiện không cứ giá ngạch là bao nhiêu, mà phải có án nghị về thẩm quyền; và Những việc kiện có quan hệ đến thân phận hay căn cước của người, hoặc về vấn đề tế tự.
 
[14] Xem thêm Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở
[15] Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp, từ năm 2014 đến hết năm 2017, đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở trên cả nước đã hòa giải thành 472.197/579.609 vụ việc hòa giải, đạt tỷ lệ 81,45%. Theo số liệu của Tòa án nhân dân tối cao thì sau 6 tháng triển khai thí điểm hòa giải, đối thoại tại Hải Phòng, từ tháng 3-2018 đến tháng 9-2018, kết quả hòa giải, đối thoại thành công 1.827 đơn, đạt tỷ lệ 76,2%.