Quy định về người tham gia tố tụng trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và đề xuất hoàn thiện

14/04/2016
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (sau đây được viết tắt là BLTTHS năm 2003) đã dành Chương IV với 15 điều từ Điều 48 đến Điều 62 quy định về người tham gia tố tụng (sau đây được viết tắt là NTGTT). Việc quy định cụ thể từng tư cách tham gia tố tụng, quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, qua thời gian áp dụng, chế định NTGTT trong BLTTHS năm 2003 đã tồn tại những vướng mắc, bất cập nhất định, đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Chính vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sau đây được viết tắt là BLTTHS năm 2015) được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực ngày 01/7/2016 đã quy định NTGTT tại các Chương IV, V gồm 30 điều từ Điều 55 đến Điều 84 với nhiều sửa đổi, bổ sung, quy định mới về diện NTGTT, quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể… Những quy định mới này đã đề cao quyền con người, quyền trong dân trong suốt quá trình tố tụng và kết hợp việc bảo vệ quyền của NTGTT với tính hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Bên cạnh những ưu điểm bên trên, quy định về NTGTT của BLTTHS năm 2015 còn tồn tại một số hạn chế, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện chế định này.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin nêu lên một vài sửa đổi, bổ sung cơ bản về NTGTT trong BLTTHS năm 2015; nêu lên một vài bất cập và đề xuất hoàn thiện chế định này.
1. Những sửa đổi, bổ sung về người tham gia tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
1.1. Về những đối tượng thuộc diện người tham gia tố tụng
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định về từng chủ thể được xác định là NTGTT mà không có điều luật quy định diện những NTGTT. Chính vì vậy, những chủ thể nào là NTGTT không có sự thống nhất trong thực tiễn như: người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, người đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…
Để khắc phục bất cập này, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung điều luật quy định về diện những NTGTT. Theo Điều 55 BLTTHS năm 2015, NTGTT bao gồm 20 đối tượng sau: (1) Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5) Người bị tạm giữ; (6) Bị can; (7) Bị cáo; (8) Bị hại; (9) Nguyên đơn dân sự; (10) Bị đơn dân sự; (11) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; (12) Người làm chứng; (13) Người chứng kiến; (14) Người giám định; (15) Người định giá tài sản; (16) Người phiên dịch, người dịch thuật; (17) Người bào chữa; (18) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; (19) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (20) Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật này.
Trong đó, những chủ thể mới được quy định bổ sung là NTGTT gồm: (1) Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5) Người chứng kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (8) Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của BLTTHS năm 2015.
Riêng các chủ thể, (1) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; (2) Bị hại; (3) Người phiên dịch, người dịch thuật có sự bổ sung, thay đổi tên gọi cho phù hợp với tư cách mới. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định người bị hại chỉ là cá nhân. Trong khi đó, theo khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015, người bị hại không chỉ là cá nhân bị thiệt hại mà còn bao gồm tổ chức bị thiệt hại. Cho nên, thuật ngữ “người bị hại” được sửa đổi, bổ sung thành “bị hại” để tránh nhầm lẫn với cách hiểu trong BLTTHS năm 2003.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 còn giải thích rõ một số thuật ngữ liên quan đến NTGTT; bổ sung khái niệm một số tư cách tham gia tố tụng hoặc sửa đổi, bổ sung một số khái niệm tư cách tham gia tố tụng đã được quy định trong BLTTHS năm 2003 cho phù hợp với quy định mới để có sự áp dụng thống nhất. Cụ thể:
- Các điểm c, đ, g khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 giải thích rõ một số thuật ngữ liên quan đến NTGTT như NTGTT, người bị buộc tội, đương sự. Theo đó, “người tham gia tố tụng” là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015; “người bị buộc tội” gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; “đương sự” gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
- Quy định bổ sung khái niệm một số tư cách tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (khoản 1 Điều 65), người chứng kiến (khoản 1 Điều 67), người định giá tài sản (khoản 1 Điều 69), người phiên dịch, người dịch thuật (khoản 1 Điều 70), người bào chữa (khoản 1 Điều 72), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (khoản 1 Điều 83), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (khoản 1 Điều 84). Theo đó, “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; “người chứng kiến” là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; “người định giá tài sản” là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, NTGTT yêu cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật; “người phiên dịch, người dịch thuật” là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có NTGTT không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; “người bào chữa” là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa; “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố” là người được người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” là người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp”.[1]
Trong các tư cách tham gia tố tụng được bổ sung khái niệm mới này, một số tư cách tham gia tố tụng đã được quy định trong BLTTHS năm 2003 được ban hành như: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người phiên dịch, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Tuy nhiên, do BLTTHS năm 2003 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành không nêu khái niệm nên việc hiểu, áp dụng chưa có sự thống nhất.
- Sửa đổi, bổ sung một số khái niệm tư cách tham gia tố tụng đã được quy định trong BLTTHS năm 2003 cho phù hợp với quy định mới là bị can (khoản 1 Điều 60), bị cáo (khoản 1 Điều 61), bị hại (khoản 1 Điều 62), người làm chứng (khoản 1 Điều 66), người giám định (khoản 1 Điều 68). Theo đó, “bị can” là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của BLTTHS năm 2015; “bị cáo” là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của BLTTHS năm 2015; “bị hại” là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra; “người làm chứng” là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng; “người giám định” là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, NTGTT yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.
Chẳng hạn, đối với người làm chứng, khoản 1 Điều 55 BLTTHS năm 2003 quy định, “Người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng”. Theo quy định này thì trong giai đoạn xác minh tố giác, tin báo về tội phạm chưa phát sinh tư cách người làm chứng. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 66 BLTTHS năm 2015, thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng sớm hơn. Theo đó, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn giữ lại một số khái niệm đã được quy định trong BLTTHS năm 2003 về người bị tạm giữ (khoản 1 Điều 59); nguyên đơn dân sự (khoản 1 Điều 63); bị đơn dân sự (khoản 1 Điều 64). Tuy nhiên, khi hiểu thuật ngữ người bị tạm giữ, chúng ta cần phân biệt “người bị tạm giữ với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” tại Điều 58 BLTTHS năm 2015. Theo đó, “người bị giữ” trong trường hợp khẩn cấp là người bị giữ nhưng chưa có quyết định tạm giữ từ cơ quan có thẩm quyền; còn người bị tạm giữ là người đã có quyết định tạm giữ đối với họ.
1.2. Về quyền và nghĩa vụ của những chủ thể tham gia tố tụng mới được bổ sung vào Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
1.2.1. Đối với người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Qua thực tiễn, trong nhiều trường hợp, người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố chưa thấy được vai trò của mình trong việc phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền, tham gia vào các hoạt động tố tụng để làm rõ sự thật khách quan, giúp cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Thông thường, chủ thể này chỉ cung cấp thông tin; còn các hoạt động tố tụng sau đó do cơ quan có thẩm quyền tự tiến hành. Cho nên, trong những trường hợp cần thêm thông tin liên quan đến sự việc bị tố giác, kiến nghị thì cơ quan có thẩm quyền không thể thu thập được. Sự việc này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có việc chủ thể này ngán ngại tham gia tích cực vào quá trình tố tụng, lo sợ thông tin cá nhân bị phát hiện, có thể bị xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của bản thân, người thân. Bởi vì, BLTTHS năm 2003 không có quy định bảo vệ họ, người thân của họ.
Để khắc phục bất cập này, BLTTHS năm 2015 đã quy định “người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố” là NTGTT và quy định rõ quyền, nghĩa vụ của chủ thể này để phát huy vai trò của họ trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, cũng như bảo vệ quyền công dân tham gia vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả hơn. Theo Điều 56 BLTTHS năm 2015, chủ thể này có quyền: (1) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa; (2) được thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (3) khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đồng thời, họ phải có nghĩa vụ, (1) có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm và (2) trình bày trung thực về những tình tiết mà mình biết về sự việc.
1.2.2. Đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
Đây cũng là chủ thể mới được bổ sung vào BLTTHS năm 2015. Qua thực tiễn, trong nhiều trường hợp, việc triệu tập người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố để làm rõ các thông tin mà họ tố giác, kiến nghị khởi tố gặp nhiều khó khăn do không có chế tài cụ thể trong những trường hợp họ không hợp tác, vắng mặt. Đồng thời, trong nhiều trường hợp, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể này do không có quy định cụ thể về quyền của họ trong giai đoạn này. Cho nên, công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy, để khắc phục hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đồng thời, để đảm bảo quyền con người, quyền công dân của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, Điều 57 BLTTHS năm 2015 đã luật hóa quyền và nghĩa vụ của chủ thể này. Theo đó, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền: (1) Được thông báo về hành vi bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (2) được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; (3) trình bày lời khai, trình bày ý kiến; (4) đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; (5) trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (6) tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; (7) được thông báo kết quả giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố; (8) khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đồng thời, chủ thể này phải có nghĩa vụ có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố.
Với các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, thấy rằng, họ cũng là một trong các chủ thể bị tình nghi phạm tội. Tuy nhiên, do các thông tin đánh giá vi phạm của họ chỉ là ở giai đoạn đệm để đi vào quá trình tiến hành tố tụng nên BLTTHS năm 2015 chỉ quy định các quyền của họ ở phạm vi có thể hạn chế những vi phạm của chủ thể tiến hành tố tụng. Chẳng hạn, họ chỉ có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, chứ không phải là tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa như người bị buộc tội.
1.2.3. Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
Với việc thay biện pháp ngăn chặn “bắt người trong trường hợp khẩn cấp” tại Điều 81 BLTTHS năm 2003 thành biện pháp “giữ người trong trường hợp khẩn cấp” (Điều 110 BLTTHS năm 2015) cho phù hợp với tính chất của biện pháp ngăn chặn này, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” là NTGTT. Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã, mặc dù BLTTHS năm 2003 không có điều luật riêng quy định về tư cách tham gia tố tụng của họ nhưng quyền và nghĩa vụ của chủ thể này cũng đã được lồng ghép vào thủ tục tiến hành các biện pháp ngăn chặn tại các Điều 82, 83, 84, 85 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này được quy định trong BLTTHS năm 2003 chưa đảm bảo một cách tốt nhất quyền con người, quyền công dân của họ, chưa ngăn chặn một cách có hiệu quả những vi phạm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể này từ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong khi đó, những chủ thể này cũng là người bị tình nghi phạm tội và những biện pháp áp dụng đối với họ lại hạn chế quyền con người, quyền công dân của họ một cách nghiêm khắc.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã, Điều 58 BLTTHS năm 2015 đã quy định chủ thể này có các quyền cơ bản sau: (1) Được nghe, nhận lệnh giữ, lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh bắt; (2) được biết lý do mình bị giữ, bị bắt; (3) được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật; (4) trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; (6) trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; (7) tự bào chữa, nhờ người bào chữa; (8) khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người. Bên cạnh đó, họ phải có nghĩa vụ chấp hành lệnh giữ người, lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền giữ người, bắt người theo quy định của BLTTHS năm 2015.
1.2.4. Đối với người chứng kiến
Theo Điều 123 BLTTHS năm 2003, người chứng kiến được mời tham dự hoạt động điều tra. Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà Điều tra viên đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân, ý kiến này được ghi vào biên bản. Cho nên, người chứng kiến có vai trò quan trọng trong một số hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố. Trong đó, sự có mặt của người chứng kiến còn có ý nghĩa để xác định các hoạt động điều tra, truy tố có giá trị pháp lý hay không. Tuy nhiên, người chứng kiến lại không được xác định là NTGTT. Việc không quy định người chứng kiến là NTGTT có một số bất cập là: (1) trong giai đoạn xét xử, khi có nghi ngờ về giá trị pháp lý của các hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong các giai đoạn tố tụng trước đó, Tòa án không được mời người chứng kiến đến phiên tòa làm rõ vì họ không phải là NTGTT; (2) do họ không được xác định là NTGTT nên chế độ đãi ngộ, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của họ cũng không đảm bảo; (3) không ràng buộc trách nhiệm khi họ không làm tròn trách nhiệm hoặc làm trái quy định của pháp luật.
Để khắc phục hạn chế này, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung người chứng kiến là NTGTT và quy định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ thể này. Theo đó, người chứng kiến có các quyền quan trọng sau: (1) yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; (2) xem biên bản tố tụng, đưa ra nhận xét về hoạt động tố tụng mà mình chứng kiến; (3) khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia chứng kiến; (4) được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí theo quy định của pháp luật. Đồng thời, người chứng kiến có nghĩa vụ: (1) có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (2) chứng kiến đầy đủ hoạt động tố tụng được yêu cầu; (3) giữ bí mật về hoạt động điều tra mà mình chứng kiến; (4) trình bày trung thực những tình tiết mà mình chứng kiến theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 còn quy định những người không được làm người chứng kiến gồm: (1) người thân thích của người bị buộc tội, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (2) người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc; (3) người dưới 18 tuổi; (4) có lý do khác cho thấy người đó không khách quan.
1.2.5. Đối với người định giá tài sản
Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (từ ngày 01/7/2016 là Bộ luật Hình sự năm 2015) có nhiều điều luật quy định dấu hiệu định lượng đối với giá trị tài sản, giá trị thiệt hại về tài sản là dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cả hai. Để truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cần có kết luận định giá của cơ quan chuyên môn. Hiện nay, việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự được thực hiện theo Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự và Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự. Hai văn bản này đã quy định khá chi tiết, đầy đủ về việc thành lập Hội đồng định giá, việc yêu cầu định giá của cơ quan tiến hành tố tụng, trình tự, thủ tục định giá… tạo ra căn cứ pháp lý cho việc định giá tài sản, nâng cao hiệu quả  đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, qua thực tiễn, việc áp dụng các quy định của 02 văn bản này đã tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định. Trong đó, có việc BLTTHS không quy định hoạt động định giá tài sản là hoạt động điều tra nên khi thực hiện các quy định về định giá tài sản, đánh giá giá trị pháp lý của kết luận định giá chưa chặt chẽ, thể hiện tính tùy nghi. Trong khi đó, xét về thẩm quyền, trình tự thủ tục tiến hành, giá trị pháp lý, vai trò thì hoạt động định giá cũng có vai trò, ý nghĩa chứng minh như các hoạt động điều tra mà BLTTHS năm 2003 quy định và xem xét cụ thể thì hoạt động định giá tài sản có nhiều điểm tương đồng so với hoạt động giám định (là một trong những hoạt động điều tra).
Chính vì vậy, để đưa hoạt động định giá tài sản đúng với vị trí của chúng, BLTTHS năm 2015 đã quy định định giá tài sản là một trong các hoạt động điều tra tại Chương XV với 08 điều từ Điều 215 đến Điều 222. Cùng với việc này, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung “người định giá tài sản” là NTGTT với các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 69 BLTTHS năm 2015. Cụ thể, người định giá tài sản có các quyền quan trọng sau: (1) yêu cầu cơ quan yêu cầu định giá, NTGTT yêu cầu định giá cung cấp tài liệu cần thiết cho việc định giá; (2) từ chối thực hiện định giá trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành định giá, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để định giá, nội dung yêu cầu định giá vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình; (3) ghi ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận của Hội đồng định giá tài sản. Đồng thời, chủ thể này có các nghĩa vụ sau: (1) có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (2) giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện định giá tài sản.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 còn quy định trách nhiệm của người định giá tài sản trong trường hợp kết luận gian dối hoặc từ chối tham gia định giá mà không vì lý do bất khả kháng, không do trở ngại khách quan và quy định những trường hợp người định giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi để đảm bảo tính khách quan đối với kết luận về giá mà họ đưa ra.
1.2.6. Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố
BLTTHS năm 2003 không quy định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố là NTGTT nên cũng không quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, Điều 83 BLTTHS năm 2015 đã quy định quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố. Theo đó, chủ thể này có quyền quan trọng sau: (1) đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; (2) kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (4) hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý hoặc khi mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc; (5) có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
1.2.7. Đối với người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
- Đối với người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, do việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân được quy định thành thủ tục riêng (Chương XXIX BLTTHS năm 2015) nên quyền và nghĩa vụ của chủ thể này không được quy định trong Chương IV, Chương V BLTTHS năm 2015 về NTGTT mà được quy định tại Điều 435 thuộc Chương XXIX BLTTHS năm 2015. Theo đó, chủ thể này có các quyền cơ bản sau: (1) Được thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) được biết lý do pháp nhân mà mình đại diện bị khởi tố; (3) được thông báo, được giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; (4) được nhận quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, vụ án; bản cáo trạng; quyết định đưa vụ án ra xét xử; bản án, quyết định của Tòa án và quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS năm 2015; (5) trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội; (6) đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; (7) đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định của BLTTHS năm 2015; (8) tự bào chữa, nhờ người bào chữa cho pháp nhân; (9) được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa cho pháp nhân kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; (10) tham gia phiên tòa, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; (11) phát biểu ý kiến sau cùng trước khi nghị án; (12) xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; (13) kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; (14) khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nhìn chung, các quyền này cũng tương tự như quyền của người bị buộc tội là cá nhân nhưng có những quy định phù hợp với tư cách của người bị buộc tội là pháp nhân.
Bên cạnh đó, chủ thể phải tuân thủ các nghĩa vụ sau: (1) có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; (2) chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Đối với người đại diện khác theo quy định của BLTTHS năm 2015, đó có thể là người đại diện hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…, BLTTHS năm 2015 không quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của chủ thể này mà quyền và nghĩa vụ của họ được quy định lồng vào điều luật quy định về chủ thể mà họ đại diện. Chẳng hạn, theo các khoản 2, 3, 5 Điều 62 BLTTHS năm 2015, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền như bị hại. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại do luật định. Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTHS năm 2015.
1.3. Về quyền và nghĩa vụ của những chủ thể tham gia tố tụng đã được quy định từ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
1.3.1. Về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, các Điều 59, 60, 61 BLTTHS năm 2015 bổ sung cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) đưa ra chứng cứ; (3) trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật. (6) có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của BLTTHS năm 2015 khi có yêu cầu (đối với bị can); có quyền trực tiếp hỏi những NTGTT nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý (đối với bị cáo).
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.
1.3.2. Về quyền và nghĩa vụ của bị hại
Cùng với việc bổ sung diện đối tượng bị thiệt hại, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung quyền và nghĩa vụ của bị hại nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đảm bảo công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả và cân bằng giữa việc bảo vệ lợi ích của chủ thể bị tội phạm gây thiệt hại với lợi ích chung.
Theo Điều 62 BLTTHS năm 2015, bị hại và người đại diện theo pháp luật của họ được bổ sung các quyền sau: (1) Được cơ quan tố tụng thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ; (2) đưa ra chứng cứ; (3) trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người dịch thuật; (5) đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và một số quyền khác.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 còn quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của bị hại nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng trong việc phát hiện, xử lý tội phạm. Đó là các nghĩa vụ: (1) Chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền; (2) trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.
Việc quy định người bị hại sẽ bị dẫn giải nếu vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử góp phần tháo gỡ nhiều khó khăn mà thực tiễn gặp phải. Bởi vì, có nhiều vụ án bao gồm vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và các vụ án khởi tố không theo yêu cầu của người bị hại nhưng tỷ lệ thương tật, sức khỏe là căn cứ để xem xét có khởi tố vụ án (như trong các vụ án giao thông người bị hại không chết nhưng bị thương rất nặng) không thể khởi tố, xử lý người vi phạm do người bị hại từ chối giám định. Vì không có chế tài nên việc buộc người bị hại giám định tỷ lệ thương tật làm căn cứ khởi tố gặp nhiều khó khăn, hầu như không thực hiện được. Thời gian tới, bất cập này sẽ được khắc phục, góp phần vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao hơn.
1.3.3. Về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Để nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, phù hợp với Luật Giám định tư pháp năm 2012, các Điều 63, 64, 65 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số quyền cho các chủ thể này gồm: (1) Đưa ra chứng cứ; (2) trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) yêu cầu giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (4) được thông báo kết quả giải quyết vụ án; (5) đề nghị chủ tọa hỏi những người tham gia phiên tòa; (6) tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và một số quyền khác.
Đồng thời, BLTTHS năm 2015 còn quy định rõ hơn nghĩa vụ của những chủ thể này phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.
1.3.4. Về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà không đề cập đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại (theo BLTTHS năm 2015 là bị hại). Tuy nhiên, dựa vào quy định tại đoạn 2 Điều 18, các điểm b, d khoản 3,  điểm b khoản 4 Điều 59, khoản 1 Điều 142, khoản 2 Điều 143, khoản 3 Điều 146, khoản 3 Điều 209, khoản 2 Điều 211, khoản 1 Điều 234 và khoản 2 Điều 245 BLTTHS năm 2003, chúng ta thấy, thuật ngữ “đương sự” được quy định trong BLTTHS năm 2003 có phạm vi bao gồm (1) người bị hại (theo BLTTHS năm 2015 là bị hại), (2) nguyên đơn dân sự, (3) bị đơn dân sự, (4) người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
So với quy định về đương sự trong BLTTHS năm 2003, thuật ngữ đương sự trong BLTTHS năm 2015 hẹp hơn, đó là việc tách chủ thể bị hại (theo BLTTHS năm 2003 là người bị hại) ra khỏi phạm vi thuật ngữ “đương sự”. Tuy nhiên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tại Điều 84 BLTTHS năm 2015 cũng tương đồng với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại Điều 59 BLTTHS năm 2003.
Trên cơ sở kế thừa quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm phát huy vai trò của chủ thể này trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong suốt quá trình tố tụng. Nhìn chung, BLTTHS năm 2015 có những bổ sung cơ bản sau:
- Xác định những người thuộc diện người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Đó là, (1) luật sư; (2) người đại diện; (3) bào chữa viên nhân dân; (4) trợ giúp viên pháp lý.
- Bổ sung một số quyền cho chủ thể này, bao gồm: (1) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (2) yêu cầu giám định, định giá tài sản; (3) có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; (4) đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra.
1.3.5. Đối với một số quy định liên quan đến người bào chữa
Trên cơ sở kế thừa quy định về người bào chữa của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo tốt hơn quyền bào chữa của người bị buộc tội; quyền và nghĩa vụ của người bào chữa; việc người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng và các thủ tục tố tụng có liên quan đến quyền bào chữa, bao gồm các nội dung sau:
Một là, mở rộng diện người được bảm đảm quyền bào chữa
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, những người có quyền bào chữa bao gồm: Người bị tạm giữ (điểm d khoản 2 Điều 48), bị can (điểm e khoản 2 Điều 49) và bị cáo (điểm e khoản 1 Điều 50).
Tuy nhiên, khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định, “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Theo quy định này thì người bị bắt cũng có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 58 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung người bị bắt vào diện chủ thể có quyền bào chữa. Theo đó, chủ thể có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Hai là, mở rộng diện người bào chữa
Khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định diện người bào chữa gồm: (1) Luật sư; (2) người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; (3) bào chữa viên nhân dân.
Theo điểm b khoản 3 Điều 21 và Điều 29 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thì trợ giúp viên pháp lý được tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong khi đó, BLTTHS năm 2003 không quy định trợ giúp viên pháp lý thuộc diện người bào chữa nên dẫn đến nhiều cách hiểu, quan điểm khác nhau về việc trợ giúp viên pháp lý có được tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay không[2]. Để khắc phục bất cập này và phát huy vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung trợ giúp viên pháp lý vào diện người bào chữa. Theo khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015, người bào chữa có thể là: (1) luật sư; (2) người đại diện của người bị buộc tội; (3) bào chữa viên nhân dân; (4) trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Sự bổ sung này đã bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội, phù hợp với Luật trợ giúp pháp lý năm 2006.
Ba là, bổ sung quy định về đăng ký bào chữa
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 và văn bản hướng dẫn thi hành, để được tham gia bào chữa trong vụ án, người bào chữa phải được cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Cho nên, sau khi nộp đầy đủ giấy tờ theo quy định, người bào chữa còn phải chờ cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Chính quy định này đã dẫn đến việc hạn chế hoặc chậm chấp nhận cho người bào chữa tham gia tố tụng bào chữa cho người bị buộc tội.
Nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng, khắc phục các vi phạm, bất cập trên thực tiễn, Điều 78 BLTTHS năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Theo đó, trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa. Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ khác nhau tùy thuộc trường hợp tham gia bào chữa (mời người bào chữa hay chỉ định người bào chữa) và chủ thể bào chữa (là luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân hay trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý). Đồng thời, quy định, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng.
Bốn là, bổ sung một số quyền, nghĩa vụ của người bào chữa và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định
Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội cho người bị buộc tội, khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; (3) thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Bên cạnh đó, để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, BLTTHS năm 2015 bổ sung các cơ chế để người bào chữa tham gia tố tụng như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà người bào chữa có quyền tham gia (Điều 79); Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, văn bản mà người bào chữa phải xuất trình khi gặp và quy định thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án (Điều 80); Quy định về việc thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án của người bào chữa (các Điều 81, 82).
Ngoài ra, để tăng cường trách nhiệm của người bào chữa, khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 còn bổ sung quy định về nghĩa vụ của người bào chữa như: Phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án.
Năm là, bổ sung quy định về thủ tục mời, cử người bào chữa
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 và văn bản hướng dẫn thi hành, thủ tục mời, cử người bào chữa chưa được quy định chặt chẽ, trong đó, không quy định việc người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa. Cho nên, trong nhiều trường hợp, khi người thân thích của người bị buộc tội mời người bào chữa thì phải có ý kiến xác nhận của người bị buộc tội có chấp nhận việc này hay không. Tuy nhiên, khi chưa cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì người bào chữa, người thân thích của người bị buộc tội không thể tiếp xúc với người bị buộc tội xem họ có chấp nhận việc người thân thích của họ mời người bào chữa hay không. Cho nên, thủ tục này phải qua cơ sở tạm giữ, tạm giam người bị buộc tội, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đang giữ hồ sơ vụ án. Vì vậy, thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa phụ thuộc vào nhiều cơ quan khác nhau.
Để bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, Điều 75 BLTTHS năm 2015 quy định về lựa chọn người bào chữa. So với quy định của BLTTHS năm 2003 và văn bản hướng dẫn, BLTTHS năm 2015 đã nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng sau: (1) Bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; (2) quy định rõ thời hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý người bị buộc tội khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào chữa từ người buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ trong việc chuyển yêu cầu này đến người bào chữa và tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ trong việc thỏa thuận nhờ bào chữa…
Sáu là, sửa đổi, bổ sung các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa
Theo khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003, khi bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì nếu họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cử người bào chữa cho họ.
Thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước, Điều 76 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung trường hợp bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm, tù chung thân. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung việc bắt buộc mời người bào chữa cho “người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất” theo hướng họ chỉ được chỉ định người bào chữa khi nhược điểm về thể chất đó làm cho người bị buộc tội không thể tự mình thực hiện được quyền bào chữa.
Theo đó, nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội gồm: (1) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; (2) người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
Bảy là, bổ sung những trường hợp không được làm người bào chữa
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa khi có người bào chữa tham gia tố tụng mà không quy định về các trường hợp không cho phép cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
Theo khoản 4 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012 (sau đây được viết tắt là Luật Luật sư), luật sư chỉ bị từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa khi thuộc một trong các trường hợp: (1) Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất từ chối luật sư; (2) luật sư là người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; (3) luật sư đã tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch; (4) luật sư là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Cho nên, trong thực tiễn, khi người bào chữa là luật sư rơi vào một trong các trường hợp được quy định tại khoản 4 Điều 27 Luật Luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sự.
Để phù hợp với Luật Luật sư và thực tiễn giải quyết vụ án thời gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ sung những đối tượng không được làm người bào chữa. Theo khoản 4 Điều 72 BLTTHS năm 2015, những người sau không được bào chữa bao gồm: (1) Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó; (2) người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; (3) người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Tám là, sửa đổi, bổ sung thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng
Theo khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2003, người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Quy định này được lồng chung với quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
Với việc quy định người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa theo Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi có người bị bắt. Theo đó, Điều 74 BLTTHS năm 2015 quy định, người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
2. Một vài bất cập đối với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người tham gia tố tụng và đề xuất hoàn thiện
2.1. Một vài bất cập đối với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người tham gia tố tụng
Thứ nhất, về hình thức quy định chế định người tham gia tố tụng
Về cơ cấu Chương IV, Chương V, theo Điều 55 BLTTHS năm 2015 thì những chủ thể được quy định trong Chương IV, Chương V BLTTHS năm 2015 đều là NTGTT. Tuy nhiên, quy định về diện NTGTT lại quy định tại Chương IV và nội dung Chương V lại tách bạch với nội dung của Chương IV là chưa đảm bảo về logic hình thức. Trong trường hợp này, đề xuất, nhập Chương V vào Chương IV.
Thứ hai, về tư cách tham gia tố tụng của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
Điều 55 BLTTHS năm 2015 không quy định người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của NTGTT là NTGTT. Trong khi đó, theo điểm c khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 thì “người tham gia tố tụng” là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015. Như vậy, trong trường hợp kế thừa quyền và nghĩa vụ của NTGTT thì người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng cũng phải tham gia vào hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015. Cho nên, cần thiết phải bổ sung người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của NTGTT là NTGTT vào Điều 55 BLTTHS năm 2015.
Về diện người được kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, theo khoản 5 Điều 62 BLTTHS năm 2015 thì “Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này”. Như vậy, BLTTHS năm 2015 chỉ xác định diện người được kế thừa quyền và nghĩa vụ là “Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất”.
Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, chúng ta thấy, ngoài bị hại là cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng còn đặt ra khi bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân chết hoặc nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất.
Trong những trường hợp này, người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của những chủ thể này sẽ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của người mà họ kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng hoặc chính bản thân họ.
Nhưng thực tế, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thường được cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định là “người đại diện hợp pháp”. Bên cạnh đó, khi bị hại, đương sự là người chưa thành niên thì cha mẹ, người đại diện hợp pháp khác của họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp cho họ. Với cách quy định này không phân biệt được đâu là người đại diện hợp pháp và đâu là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng khi các chủ thể này chết. Đồng thời, quy định này của BLTTHS cũng không tương thích về người đại diện hợp pháp do Bộ luật Tố tụng dân sự và Bộ luật Dân sự quy định.
Hiện nay, trong tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây được viết tắt là Bộ luật Tố tụng dân sự) có quy định về việc người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng (Điều 62) bên cạnh quy định về đại diện (từ Điều 73 đến Điều 78). Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng, đương sự là cá nhân chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng; trường hợp NTGTT là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì tùy từng trường hợp việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự có thể là cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng; đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức cấp trên của cơ quan, tổ chức đó hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức được giao tiếp nhận các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng... Trường hợp đương sự là tổ chức không phải là pháp nhân mà người đại diện hoặc người quản lý đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại diện để tham gia tố tụng; nếu tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì cá nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng. Như vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự đã có quy định phân biệt giữa người đại diện hợp pháp với người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 (sau đây được viết tắt là Bộ luật Dân sự) cũng có quy định rõ về đại diện từ Điều 139 đến 148. Theo đó, đại diện bao gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Đồng thời, đối với đại diện của cá nhân, theo Điều 147 Bộ luật Dân sự, một trong những căn cứ chấm dứt đại diện của cá nhân là người được đại diện chết (đối với đại diện theo pháp luật), người uỷ quyền chết (đối với đại diện theo ủy quyền).
Hơn nữa, việc không phân biệt giữa người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng với người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự đã gây khó khăn trong thực tiễn khi một trong các chủ thể này chết, người thừa kế của họ tham gia tố tụng ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Có quan điểm cho rằng, do người thừa kế là người đại diện hợp pháp nên họ không có quyền ủy quyền cho người khác mà họ phải trực tiếp tham gia tố tụng. Quan điểm khác lại cho rằng, người thừa kế hoàn toàn có quyền ủy quyền lại cho người khác tham gia tố tụng do người thừa kế là người thay mặt đương sự đã chết tham gia tố tụng chứ họ không phải là người đại diện như Bộ luật Dân sự quy định.
Như vậy, việc dùng thuật ngữ người đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án khi những người này chết là mâu thuẫn với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Dân sự và gây khó khăn trong thực tiễn. Cho nên, cần quy định về người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của những chủ thể này tham gia tố tụng khi họ chết để thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và khắc phục bất cập trong thực tiễn. Về quyền, nghĩa vụ của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của những chủ thể này, cần quy định dẫn chiếu đến quyền, nghĩa vụ của chủ thể được kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Thứ ba, về người đại diện hợp pháp
Khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015 quy định “Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật này”. BLTTHS năm 2015 không có điều luật quy định riêng về tư cách tham gia tố tụng này mà chúng được quy định trong cùng điều luật với tư cách chủ thể mà họ đại diện. Quy định của BLTTHS năm 2015 có thuận lợi là quyền và nghĩa vụ của họ sẽ được quy định cùng với tư cách của người mà họ đại diện. Tuy nhiên, việc quy định này cũng có hạn chế là không có điều luật quy định một cách khái quát, chi tiết về tư cách chủ thể này nên gặp khó khăn trong việc hiểu, vận dụng.
Chúng tôi cho rằng, cần thiết phải có quy định một cách chi tiết, đầy đủ về tư cách người đại diện hợp pháp của NTGTT. Đồng thời, để duy trì ưu điểm mà BLTTHS năm 2015 quy định thì chúng ta có thể dùng quy định dẫn chiếu đến quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể mà họ đại diện khi họ tham gia tố tụng.
Bên cạnh đó, nếu chỉ giới hạn người đại diện hợp pháp gồm: (1) người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội và (2) người đại diện theo quy định của BLTTHS năm 2015 là chưa đầy đủ. Bởi vì, nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015, chúng ta chỉ xác định được những người đại diện hợp pháp ở dạng thứ (2) gồm: người đại diện hợp pháp của bị hại (khoản 2 Điều 62), nguyên đơn dân sự (khoản 2 Điều 63), bị đơn dân sự (khoản 2 Điều 64), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (khoản 2 Điều 65), người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, người làm chứng (các Điều 420, 421). Còn trường hợp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt chưa được quy định rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường hợp, các chủ thể này dưới 18 tuổi thì cũng cần người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng. Trong khi đó, việc xác định người đại diện hợp pháp cho các chủ thể này phải dựa vào quy định của pháp luật dân sự.
Vì vậy, cần bổ sung vào khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015 việc xác định người đại diện hợp pháp của NTGTT được xác định theo pháp luật dân sự và bổ sung vào BLTTHS năm 2015 điều luật riêng quy định về người đại diện hợp pháp.
Thứ tư, về mô hình người tham gia tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Theo BLTTHS năm 2015, NTGTT bao gồm 20 tư cách tham gia tố tụng. Đồng thời, từng tư cách tham gia tố tụng được quy định riêng biệt. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có những tiến bộ khi giải thích rõ một số thuật ngữ liên quan đến NTGTT như NTGTT, người bị buộc tội, đương sự. Theo các điểm c, đ, g khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, “người tham gia tố tụng” là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015; “người bị buộc tội” gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; “đương sự” gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Tuy nhiên, khi trình bày về từng chủ thể tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 lại không nhóm chúng lại với nhau mà lại quy định riêng rẽ từng tư cách tham gia tố tụng.
Chúng ta thấy rằng, trong tố tụng hành chính, tố tụng dân sự thì thuật ngữ đương sự được sử dụng song song với thuật ngữ NTGTT. Việc quy định thuật ngữ đương sự trong khi đã có thuật ngữ NTGTT không ngoài mục đích nào khác là nhằm nhóm các chủ thể có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sự việc đang được giải quyết lại với nhau để có sự tách bạch với những NTGTT khác, tạo ra sự lôgic trong quy định của văn bản luật và tạo ra sự thuận lợi khi sử dụng trong thực tiễn. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 cũng cần đặt ra việc nhóm các chủ thể có những dấu hiệu tương đồng lại với nhau để đạt mục đích trên.
Nghiên cứu vị trí, vai trò, đặc điểm và quyền, nghĩa vụ của các tư cách tham gia tố tụng do BLTTHS năm 2015 quy định chúng ta có thể nhóm các tư cách tham gia tố tụng có một số đặc điểm chung như sau:
Nhóm 1, đối với vụ án mà người phạm tội là cá nhân, cùng một chủ thể nhưng tùy từng giai đoạn tố tụng khác nhau sẽ có tên gọi khác nhau gồm: trước khi có quyết định tạm giữ là (1) người bị tố giác, (2) người bị kiến nghị khởi tố, (3) người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, (4) người bị bắt; từ khi có quyết định tạm giữ là người bị buộc tội gồm tư cách tham gia tố tụng của (5) người bị tạm giữ, (6) bị can, (7) bị cáo.
Đối với vụ án mà người phạm tội là pháp nhân, do tư cách chủ thể (người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội) được quy định ở Chương riêng và có nhiều khác biệt với các tư cách tham gia tố tụng đối với vụ án mà người phạm tội là cá nhân. Cho nên, chúng ta không nhóm chúng vào nhóm này.
Nhóm 2, các chủ thể khác nhau nhưng có nhiều quyền lợi, nghĩa vụ giống nhau và ít có sự thay đổi trong suốt quá trình giải quyết vụ án gồm tư cách tham gia tố tụng của (1) bị hại, đương sự gồm (2) nguyên đơn dân sự, (3) bị đơn dân sự, (4) người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Nhóm 3, các chủ thể tham gia tố tụng không nhân danh cá nhân mình mà với tư cách đại diện cho các chủ thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án gồm (1) người đại diện hợp pháp của các chủ thể thuộc nhóm 1, nhóm 2 và (2) người đại diện hợp pháp của người làm chứng.
Nhóm 4, các chủ thể tồn tại trước thời điểm khởi tố vụ án hình sự, có sự giao thoa giữa chủ thể thuộc nhóm 2, nhóm 3 là người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Bởi vì, sau khi vụ án được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì họ có thể là bị hại, đương sự, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo…
Nhóm 5, các chủ thể tham gia tố tụng còn lại để bảo vệ quyền lợi của NTGTT hoặc làm rõ các tình tiết vụ án gồm: (1) người bào chữa, (2) người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, (3) người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (3) người giám định, (4) người định giá tài sản, (5) người phiên dịch, người dịch thuật, (6) Người làm chứng, (7) người chứng kiến.
Nghiên cứu từng nhóm chủ thể tham gia tố tụng bên trên, chúng tôi cho rằng, việc quy định các chủ thể thuộc các nhóm 3, 4, 5 thành từng điều luật riêng biệt là phù hợp do vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của từng tư cách chủ thể này không có hoặc rất ít có sự tương đồng. Tuy nhiên, đối với các chủ thể thuộc nhóm 1, nhóm 2 cần có sự xem xét nhóm những chủ thể có những điểm tương đồng lại với nhau để đảm bảo tính logic, tránh dàn trải.
Đối với các chủ thể thuộc nhóm 1, họ là người bị tình nghi phạm tội và là đối tượng được pháp luật tố tụng hình sự hướng đến nhằm ngăn ngừa, phòng chống tội phạm nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ; tức những người thuộc nhóm này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình, họ là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong các chủ thể này, cách thức quy định tách rời quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của BLTTHS năm 2015 chưa thật sự logic. Bởi vì, theo các khoản 2, 3 của các Điều 59, 60, 61 BLTTHS năm 2015 thì các chủ thể này có nhiều quyền lợi, nghĩa vụ tương đồng với nhau và sự khác biệt chỉ đến khi họ bị chuyển sang giai đoạn tố tụng khác. Chính vì vậy, cần gộp các chủ thể này lại với nhau và gọi tên chung cho nhóm này là “người bị buộc tội” như giải thích tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 và quy định các quyền, nghĩa vụ mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều có như nhau cho tư cách tham gia tố tụng này. Đối với những quyền và nghĩa vụ chỉ khi người bị buộc tội ở từng giai đoạn tố tụng khác nhau mới có thì ta quy định ở các điều luật riêng biệt cho từng tư cách.
Đối với các chủ thể thuộc nhóm 2, họ là những người không chịu trách nhiệm hình sự mà việc họ tham gia vào vụ án nhằm tự bảo vệ quyền lợi của mình hoặc phải gánh chịu nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; quan hệ mà họ tham gia bao gồm các quan hệ về dân sự có thể giữa các chủ thể thuộc nhóm này với nhau hoặc có thể với người bị tình nghi phạm tội. Theo điểm g khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, “Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. Như vậy, bị hại không phải là đương sự trong vụ án.
Về tư cách nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo các khoản 2, 3 của các Điều 63, 64 và 65 BLTTHS năm 2015 thì các chủ thể này có rất nhiều quyền và nghĩa vụ giống nhau và không phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng mà họ tham gia. Đồng thời, quan hệ mà các chủ thể này tham gia bao gồm các quan hệ về dân sự có thể giữa các chủ thể thuộc nhóm này với nhau hoặc có thể với người bị tình nghi phạm tội. Vì vậy, bên cạnh cạnh dùng thuật ngữ là đương sự (như giải thích tại điểm g khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015), cần quy định quyền và nghĩa vụ mà mỗi tư cách tố tụng đều có trong cùng một điều luật. Đối với các quyền và nghĩa vụ đặc trưng cho từng chủ thể thì ta có thể quy định ở các điều luật riêng.
Riêng bị hại, theo các khoản 2, 4 Điều 62 BLTTHS năm 2015, chủ thể này vừa có mối quan hệ về trách nhiệm hình sự với người phạm tội trong phạm vi hạn hẹp như: yêu cầu khởi tố vụ án hình sự (Điều 155 BLTTHS năm 2015)[3], trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội (khoản 4 Điều 320 BLTTHS năm 2015); đề nghị hình phạt đối với người phạm tội (điểm g khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015), kháng cáo về hình phạt đối với người phạm tội (khoản 1 Điều 331 BLTTHS năm 2015). Vì vậy, chúng tôi thống nhất với việc xếp chủ thể này độc lập mà không nhóm cùng với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
2.2. Một vài kiến nghị hoàn thiện
Với phân tích trên, chúng tôi kiến nghị hoàn thiện quy định về NTGTT trong BLTTHS năm 2015 như sau:
Thứ nhất, nhập Chương V BLTTHS năm 2015 vào Chương IV BLTTHS năm 2015 và sử dụng tên chung là “người tham gia tố tụng”. Cụ thể:
“Chương IV. NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG”
Thứ hai, bổ sung vào Điều 55 BLTTHS năm 2015 khoản 21 với nội dung:
21. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này và pháp luật có liên quan”.
Thứ ba, bổ sung vào khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015 cụm từ “và pháp luật có liên quan”. Theo đó, khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015 có nội dung như sau:
“Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật này và pháp luật có liên quan”.
Thứ tư, bổ sung vào BLTTHS năm 2015 Điều 58a và sửa đổi, bổ sung các Điều 59, 60, 61 BLTTHS năm 2015 với nội dung như sau:
Điều 58a. Người bị buộc tội
1. Người bị buộc tội là những người tham gia tố tụng bị cáo buộc đã thực hiện hành vi phạm tội. Người bị buộc tội bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.[4]
Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.[5]
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.[6]
Trong trường hợp, bản án đã có hiệu lực pháp luật bị hủy theo trình tự, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì tư cách bị cáo chấm dứt khi vụ án được điều tra, truy tố lại.
2. Quyền của người bị buộc tội
(Quy định các quyền mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều có)
3. Nghĩa vụ của người bị buộc tội
(Quy định các nghĩa vụ mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều phải tuân thủ)
Điều 59. Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ
1. Các quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội được quy định tại Điều 58a của Bộ luật này.
2. (Quy định các quyền và nghĩa vụ chỉ người bị tạm giữ mới có).
Điều 60. Quyền và nghĩa vụ của bị can
1. Các quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội được quy định tại Điều 58a của Bộ luật này.
2. (Quy định các quyền và nghĩa vụ chỉ bị can mới có).
Điều 61. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo
1. Các quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội được quy định tại Điều 58a của Bộ luật này.
2. (Quy định các quyền và nghĩa vụ chỉ bị cáo mới có).
Thứ năm, bổ sung vào BLTTHS năm 2015 Điều 62a và sửa đổi, bổ sung các Điều 63, 64, 65 BLTTHS năm 2015 với nội dung như sau:
Điều 62a. Đương sự
1. Đương sự là những người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ liên quan đến tội phạm xảy ra, tham gia vào vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình hoặc chịu nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhưng không phải là người thực hiện hành vi phạm tội.
Đương sự bao gồm: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.[7]
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.[8]
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.[9]
2. Quyền của đương sự
(Quy định các quyền mà nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều có).
3. Nghĩa vụ của đương sự
(Quy định các nghĩa vụ mà nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều phải tuân thủ).
Điều 63. Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự
1. Các quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 62a của Bộ luật này.
2. (Quy định các quyền, nghĩa vụ mà chỉ nguyên đơn dân sự mới có).
Điều 64. Quyền và nghĩa vụ của bị đơn dân sự
1. Các quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 62a của Bộ luật này.
2. (Quy định các quyền, nghĩa vụ mà chỉ bị đơn dân sự mới có).
Điều 65. Quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1. Các quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 62a của Bộ luật này.
2. (Quy định các quyền, nghĩa vụ mà chỉ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mới có).
Thứ sáu, bổ sung vào BLTTHS năm 2015 Điều 65a với nội dung như sau:
Điều 65a. Người đại diện hợp pháp
1. Người đại diện hợp pháp là người nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện tham gia vào vụ án. Việc xác định người đại diện hợp pháp được áp dụng theo quy định của Bộ luật này và pháp luật có liên quan.
Người đại diện hợp pháp bao gồm: Người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội, người đại diện hợp pháp của bị hại, đương sự và người đại diện hợp pháp của người làm chứng.
2. Người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, đương sự có quyền và nghĩa vụ của người mà họ đại diện.
3. Người đại diện hợp pháp của người làm chứng giúp đỡ người làm chứng thực hiện quyền, nghĩa vụ của người làm chứng.
Thứ bảy, bổ sung vào BLTTHS năm 2015 Điều 65b với nội dung như sau:
Điều 65b. Kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng hình sự
Trường hợp bị hại, đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.
Trường hợp bị hại, đương sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì cá nhân, tổ chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng.
Chế định NTGTT có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong cơ cấu của Bộ luật Tố tụng hình sự vì những quy định của chế định này thể hiện tập trung nhất quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp quy định nhằm tránh vi phạm các quyền cơ bản này trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Những sửa đổi, bổ sung của BLTTHS năm 2015 về chế định này sẽ góp phần quan trọng vào việc hiểu, áp dụng thống nhất trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT, tránh vi phạm, lạm quyền từ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, xuất phát từ tầm quan trọng của chế định này, việc hoàn thiện quy định chế định này là nhiệm vụ thường xuyên. Cho nên, với những phát hiện và kiến nghị trong bài viết này hy vọng đóng góp nhỏ vào việc hoàn thiện chế định NTGTT trong BLTTHS năm 2015 trong thời gian tới.
ThS. Thái Chí Bình
Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
 
[1] Trong khi đó, khoản 1 Điều 59 BLTTHS năm 2003 chỉ quy định, “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình.”
[2] Xem: Phan Vũ, Trợ giúp viên pháp lý được tham gia tố tụng tại http://kiemsat.vn/ct/tro-giup-vien-phap-ly-duoc-tham-gia-to-tung-427-427-427-427.html
[3] Theo khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015, “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết”.
[4] Theo khoản 1 Điều 59 BLTTHS năm 2015.
[5] Theo khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015.
[6] Theo khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015.
[7] Theo khoản 1 Điều 63 BLTTHS năm 2015.
[8] Theo khoản 1 Điều 64 BLTTHS năm 2015.
[9] Theo khoản 1 Điều 65 BLTTHS năm 2015.