Đối với các loại khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại và một số sản phẩm rừng tự nhiên, thuế suất sẽ tăng, còn nước khoáng thiên nhiên, nước thiên nhiên thì giữ nguyên so với mức cũ quy định tại Quyết định 16/2008/QĐ-BTC ngày 14/4/2008 của Bộ Tài chính. Riêng đối với dầu thô, thuế suất tăng thêm 2%; còn đối với khí thiên nhiên, khí than thì thuế suất không thay đổi.
Căn cứ tính thuế TN là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế suất. Riêng đối với dầu thô, khí thiên nhiên và khí than, căn cứ tính thuế được xác định trên cơ sở lũy tiến từng phần của tổng sản lượng dầu, khí thực khai thác trong mỗi kỳ nộp thuế tính theo sản lượng dầu, khí bình quân mỗi ngày khai thác được của hợp đồng dầu, khí, thuế suất thuế tài nguyên và số ngày khai thác trong kỳ tính thuế.
Tổ chức, cá nhân khai thác TN thực hiện đăng ký, kê khai, nộp thuế TN theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Riêng đối với dầu, khí, thuế TN được nộp bằng dầu thô, khí thiên nhiên, khí than, bằng tiền hoặc một phần bằng tiền và một phần bằng dầu khí theo quy định của Bộ Tài chính. Cơ quan thuế thông báo cho người nộp thuế bằng văn bản trước 6 tháng về việc nộp thuế TN bằng tiền hay bằng dầu khí.
Miễn, giảm thuế tài nguyên
Nghị định quy định cụ thể các trường hợp được miễn, giảm thuế TN. Cụ thể, tổ chức, cá nhân khai thác TN gặp thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ, gây tổn thất đến TN đã kê khai và nộp thuế được xét miễn thuế TN phải nộp cho số TN bị tổn thất. Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác thủy sản ở vùng biển xa bờ bằng phương tiện có công suất lớn được miễn thuế TN trong 5 năm kể từ khi được cấp Giấy phép khai thác và giảm 50% thuế TN trong 5 năm tiếp theo.
Miễn thuế TN đối với sản phẩm rừng tự nhiên do cá nhân được phép khai thác phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày như gỗ, cành, củi, tre, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô; đồng thời, miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng vào sản xuất thủy điện không hòa vào mạng lưới điện quốc gia...
Như vậy, theo Nghị định 05/2009/NĐ-CP, thuế suất thuế TN đối với khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại đều tăng khoảng từ 2-4 %, như kim loại đen, chì, kẽm, nhôm... tăng từ 5% lên 7%, vàng sa khoáng, vàng cốm tăng từ 6% lên 9%. Thuế suất đối với các loại than tăng gấp 2 lần, như than an tra xít hầm lò tăng từ 2% lên 4%, than an tra xít lộ thiên và than nâu, than mỡ tăng từ 3% lên 6%. Đặc biệt, kim cương, ru bi, saphia tăng từ 8% lên 16%; adit, rôđôlit, thạch anh tinh thể... tăng từ 5% lên 12%.
Đối với sản phẩm rừng và thủy sản tự nhiên, đa số các mức thuế suất được giữ nguyên, trừ gỗ tròn nhóm III, IV, gỗ trụ mỏ, gỗ tẩm, gỗ đước, gỗ tràm... thuế suất tăng thêm 5%.
Nước khoáng thiên nhiên, nước thiên nhiên, khí thiên nhiên, khí than mức thuế suất không thay đổi.
Đối với dầu thô, thuế suất thuế TN tăng thêm 2%; cụ thể, sản lượng khai thác đến 20.000 thùng/ngày thì thuế suất là 6% đối với dự án khuyến khích đầu tư và 8% đối với dự án khác; trên 20.000 thùng đến 50.000 thùng thì thuế suất tương ứng là 8% và 10%...
N.C