Từ 1/7/2009: Người không quốc tịch cư trú ổn định 20 năm tại Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam

17/11/2008
Cùng với quy định công dân Việt Nam được đồng thời có quốc tịch nước ngoài, Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/7/2009 quy định, công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật.

3 trường hợp được miễn điều kiện biết tiếng Việt

Các điều kiện để nhập quốc tịch Việt Nam bao gồm: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam; biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam; đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch; có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.

Tuy nhiên, Luật cũng quy định rõ, người muốn nhập quốc tịch Việt Nam chỉ cần đáp ứng một trong các trường hợp “Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam”; “Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”; “Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thì sẽ được miễn các điều kiện biết tiếng Việt, thường trú 5 năm tại Việt Nam và có khả năng đảm bảo cuộc sống tại Việt Nam.

Theo pháp luật và thông lệ quốc tế thì một trong những điều kiện bắt buộc để có thể được nhập quốc tịch là phải biết tiếng phổ thông của quốc gia mà người đó xin nhập quốc tịch. Trong Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 cũng quy định điều kiện để một người xin nhập quốc tịch Việt Nam là phải biết tiếng Việt. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn đối với trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam có mối quan hệ gắn bó với những người là công dân Việt Nam, như là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam. Do đó, cùng với quy định điều kiện biết tiếng Việt, tại khoản 2 Điều 19  Luật sửa đổi lần này đã quy định các trường hợp được miễn một số điều kiện, trong đó có điều kiện về biết tiếng Việt. Những trường hợp được miễn một số điều kiện nêu trên cũng đồng thời không phải thôi quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam. Các trường hợp còn lại khi nhập quốc tịch Việt Nam sẽ phải thôi quốc tịch nước ngoài, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép thì người đó mới được giữ quốc tịch nước ngoài. Luật cũng quy định, người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam. Tên gọi này do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.

“Cánh cửa mở” đối với người không quốc tịch

Theo Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi, kể từ ngày 1/7/2009, người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định. Bên cạnh đó, những người khác chỉ  cần có 1 trong 4 loại giấy tờ sau là có thể chứng minh quốc tịch Việt Nam: Giấy khai sinh (trường hợp Giấy khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam thì phải kèm theo giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ); Giấy chứng minh nhân dân; Hộ chiếu Việt Nam; Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài, Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.

Hồng Thúy