Hướng dẫn bổ sung một số quy định về việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng

20/11/2007
Tiếp theo Thông tư số 07/2006/TT - BLĐTBXH ngày 26//7/2006 và Thông tư số 02/2007/TT - BLĐTBXH ngày 16/01/2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ngày 15/11/2007 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 25/2007/TT - BLĐTBXH hướng dẫn bổ sung việc thực hiện ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Theo đó, một số nội dung được hướng dẫn áp dụng như sau:

1. Việc cấp giấy báo tử đối với người hy sinh trước ngày 01/10/2005 chưa được xác nhận là liệt sĩ được thực hiện trong những trường hợp sau:

a. Người hy sinh đã được ghi là liệt sĩ trong các giấy tờ như: Giấy báo tử trận; Huân chương, Huy chương; giấy chứng nhận đeo Huân chương, Huy chương; Bảng vàng danh dự; Bảng gia đình vẻ vang hoặc lịch sử Đảng của cấp xã, phường, thị trấn trở lên.

b. Người hy sinh trong chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu đã được nhân dân, chính quyền địa phương suy tôn, đưa hài cốt vào an táng trong nghĩa trang liệt sĩ (có giấy xác nhận của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội nơi đang quản lý mộ).

2. Việc cấp giấy chứng nhận bị thương đối với người bị thương trước ngày 01/10/2005 chưa được hưởng chế độ thương tật được thực hiện trong trường hợp người bị thương có vết thương được ghi nhận trong các giấy tờ gốc như: Lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, lý lịch quân nhân được lập trước ngày 01//01/1995; phiếu chuyển thương, chuyển viện lúc bị thương; bệnh án điều trị khi bị thương; giấy ra viện khi bị thương.

3. Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học và con đẻ của họ được miễn một số thủ tục, giấy tờ khi lập hồ sơ như sau:

           a. Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học đồng thời là thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, người hưởng chế độ mất sức lao động được miễn giám định mức độ suy giảm khả năng lao động.

b. Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học đồng thời là thương binh, bệnh binh do thương tật, bệnh tật ở cột sống mà bị liệt hai chi dưới thì không cần có giấy xác nhận vô sinh của bệnh viện.

c. Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học có vợ (hoặc chồng) nhưng vô sinh hoặc đã có con trước khi đi chiến trường, sau khi trở về không sinh thêm con nay đã hết tuổi lao động (nữ đủ 55 tuổi; nam đủ 60 tuổi)  thì không cần có giấy xác nhận vô sinh của bệnh viện.

d. Không thực hiện việc giám định sức khoẻ đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học mà căn cứ vào tình trạng dị dạng, dị tật thực tế để xét trợ cấp: Người bị dị dạng, dị tật nặng, không tự lực được trong sinh hoạt hưởng trợ cấp mức 1 (Mức 470.000 đồng/tháng theo Nghị định số 32/2007/NĐ-CP ngày 02/3/2007 của Chính phủ); người bị dị dạng, dị tật, không còn khả năng lao động, suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt hưởng trợ cấp mức 2 (Mức 238.000 đồng/tháng theo Nghị định số 32/2007/NĐ-CP).

4. Trường hợp, người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng chiến được Nhà nước tặng Huân chương, Huy chương kháng chiến đã chết mà chưa được hưởng chế độ thì thân nhân của họ được hưởng trợ cấp 1 lần như quy định đối với thân nhân người có công với cách mạng chết trước ngày 01/01/1995 (quy định tại Khoản 7 Mục B Bảng số 01 kèm theo Nghị định số 32/2007/NĐ-CP).

5. Người có công với cách mạng đang hưởng chế độ ưu đãi mà phạm tội: Người có công với cách mạng đang hưởng chế độ ưu đãi bị kết án tù trên 5 năm có thời gian chấp hành hình phạt tù quy định tại bản án đã tuyên kéo dài đến sau ngày 30/09/2005 thì thuộc diện được xem xét, giải quyết hưởng lại chế độ ưu đãi theo Điều 33, Điều 34 Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006 của Chính phủ. Thời điểm hưởng trợ cấp được tính từ ngày có Quyết định trợ cấp lại.

6. Về thủ tục cấp lại Bằng “Tổ quốc ghi công”:

a. Đối với người hy sinh đã được cấp Bằng Tổ quốc ghi công của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hoặc Bằng Tổ quốc ghi ơn của Bộ trưởng Bộ Thương binh Cựu binh: Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tiếp nhận Bằng (bản chính), lập danh sách (kèm Tờ trình để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trình Thủ tướng Chính phủ) gửi về Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội để thực hiện việc cấp Bằng “Tổ quốc ghi công”.

b. Việc cấp lại Bằng “Tổ quốc ghi công” thực hiện đối với các trường hợp Bằng “Tổ quốc ghi công” bị hư hỏng, rách nát, mối mọt hoặc thất lạc; không tiến hành cấp lại Bằng “Tổ quốc ghi công” một cách đồng loạt.

Sở Lao động- Thương binh và Xã hội kiểm tra hồ sơ, lập danh sách, viết Bằng “Tổ quốc ghi công” kèm Tờ trình gửi về Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (Cục Thương binh Liệt sĩ và Người có công) để tổng hợp, trình cấp lại Bằng “Tổ quốc ghi công”.

7. Việc giải quyết chế độ đối với bệnh binh hoặc công nhân viên chức nghỉ việc hưởng chế độ mất sức lao động đồng thời là thương binh, người hưởng chính sách như thương binh (gọi chung là thương binh):

a. Đối với những trường hợp đã giám định tách riêng tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do bệnh tật và tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật: Chế độ ưu đãi thực hiện theo Nghị định số 54/2006/NĐ-CP.

b. Đối với những trường hợp đã giám định gộp tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do bệnh tật và tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật:

- Công nhân viên chức có thời gian công tác thực tế từ 20 năm trở lên hoặc chưa đủ 20 năm công tác thực tế nhưng có đủ 15 năm công tác liên tục trong quân đội, công an đồng thời là thương binh có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật từ 21% trở lên thì được hưởng hai chế độ trợ cấp: mất sức lao động và thương tật.

- Công nhân viên chức có thời gian công tác thực tế dưới 20 năm và là thương binh được hưởng đồng thời cả hai chế độ trợ cấp nếu sau khi đã trừ tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật mà tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật còn từ 61% trở lên. Nếu sau khi trừ tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật mà tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật còn dưới 61% thì được chọn hưởng một trong hai chế độ trợ cấp: mất sức lao động hoặc thương tật.

- Bệnh binh có thời gian công tác liên tục trong quân đội, công an từ 15 năm trở lên hoặc chưa đủ 15 năm công tác liên tục trong quân đội, công an nhưng cộng thời gian công tác thực tế trước đó có đủ 20 năm trở lên đồng thời là thương binh có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật từ 21% trở lên thì được hưởng hai chế độ trợ cấp: bệnh binh và thương tật. 

- Bệnh binh có thời gian công tác trong quân đội, công an dưới 15 năm được hưởng đồng thời cả hai chế độ trợ cấp nếu sau khi đã trừ tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật mà tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do bệnh tật còn từ 41% trở lên. Nếu sau khi trừ tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật mà tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do bệnh tật còn dưới 41% thì được chọn hưởng một trong hai chế độ trợ cấp: bệnh binh hoặc thương binh.

c. Việc giải quyết chế độ ưu đãi được áp dụng đối với các hồ sơ được lập trước và kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 trở về sau.

d. Thời điểm hưởng thêm một chế độ trợ cấp được tính từ ngày Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội ra quyết định trợ cấp.

Chí Linh