Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu

10/09/2015
Ngày 03/9/2015, Liên bộ Kế hoạch và Đầu tư – Nội vụ đã ban hành Thông tư số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu (sau đây gọi chung là Ban Quản lý).
Theo đó, Ban Quản lý là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với khu công nghiệp, khu chế xuất (sau đây gọi chung là khu công nghiệp), khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu (sau đây gọi chung là khu kinh tế) và tổ chức cung cấp dịch vụ hành chính công và dịch vụ hỗ trợ khác có liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong khu công nghiệp, khu kinh tế.
Ban Quản lý chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế, công chức, viên chức, chương trình kế hoạch công tác và kinh phí hoạt động của UBND cấp tỉnh; chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của các Bộ, ngành quản lý về ngành, lĩnh vực trong công tác quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế; có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh trong công tác quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế.
Ban Quản lý có tư cách pháp nhân; tài khoản và con dấu mang hình quốc huy; sử dụng kinh phí quản lý hành chính nhà nước, kinh phí hoạt động sự nghiệp và vốn đầu tư phát triển do ngân sách nhà nước cấp theo kế hoạch hàng năm; nguồn kinh phí khác theo quy định pháp luật.
Về cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý bao gồm: các phòng chuyên môn, nghiệp vụ; Văn phòng Ban Quản lý; Văn phòng đại diện tại khu công nghiệp, khu kinh tế (nếu có); đơn vị sự nghiệp công lập (nếu có). Số lượng các phòng chuyên môn, nghiệp vụ không quá 05 phòng với tên gọi như sau: Phòng Kế hoạch tổng hợp; Phòng Quản lý đầu tư; Phòng Quản lý doanh nghiệp; Phòng Quản lý tài nguyên và môi trường; Phòng Quản lý quy hoạch và xây dựng.
Đối với các địa phương có số lượng lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế từ 50.000 lao động trở lên, Ban Quản lý được bổ sung, thành lập Phòng Quản lý lao động. Đối với các địa phương có từ 200 dự án đầu tư trở lên đang hoạt động với tổng đầu tư đăng ký trên 2,5 tỷ USD hoặc 100 dự án đầu tư với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 5,0 tỷ USD trong khu công nghiệp, khu kinh tế, Ban Quản lý được bổ sung, thành lập Phòng Hỗ trợ và giám sát hoạt động đầu tư.
Ban Quản lý tổ chức, thành lập bộ phận “một cửa” để làm đầu mối tiếp nhận, xử lý các thủ tục hành chính cho nhà đầu tư trong khu công nghiệp, khu kinh tế và các tổ chức, cá nhân có liên quan khác;
Đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế nằm ngoài địa bàn nơi đặt trụ sở Ban Quản lý và cần thiết phải hỗ trợ về thủ tục hành chính tại chỗ, Ban Quản lý được thành lập văn phòng đại diện tại khu công nghiệp, khu kinh tế; Văn phòng đại diện thực hiện các nhiệm vụ: hướng dẫn các thủ tục hành chính; cung cấp dịch vụ hành chính “một cửa”; trực tiếp giải quyết một số thủ tục hành chính do Trưởng Ban Quản lý giao;
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và yêu cầu quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn, Trưởng Ban Quản lý chủ trì, phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình UBND cấp tỉnh quyết định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý, quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Ban Quản lý theo quy định của pháp luật. UBND cấp tỉnh quyết định thành lập Văn phòng đại diện tại khu công nghiệp, khu kinh tế, Phòng Quản lý lao động, Phòng Hỗ trợ và giám sát hoạt động đầu tư của Ban Quản lý sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Nội Vụ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Biên chế công chức, số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập của Ban Quản lý được giao trên cơ sở vị trí việc làm, gắn với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và nằm trong tổng số biên chế công chức, số lượng người làm việc trong các cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được cấp có thẩm quyền giao hoặc phê duyệt.
Thông tư liên tịch này có hiệu lực kể từ ngày 19 tháng 10 năm 2015.