Bộ Tư pháp ban hành Thông tư hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý

04/04/2011
Ngày 31/3/2011, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 07/2011/TT-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý.

Theo đó, Thông tư gồm 4 Chương, 26 Điều chứa đựng các quy định nhằm mục tiêu tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý một cách đồng bộ và có hiệu quả trong toàn quốc; bảo đảm nam giới và nữ giới thuộc diện người được trợ giúp pháp lý được nâng cao nhận thức pháp luật về bình đẳng giới và thụ hưởng trợ giúp pháp lý một cách bình đẳng; hoạt động trợ giúp pháp lý phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của từng giới; bảo đảm trợ giúp pháp lý phát triển có chiều sâu, ổn định và bền vững trên cơ sở cân bằng giới trong nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý.

Thông tư được áp dụng đối với các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, bao gồm: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước (Trung tâm), Chi nhánh của Trung tâm; tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý là công ty luật, văn phòng luật sư, các trung tâm tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp đã đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý; người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý; luật sư, tư vấn viên pháp luật thuộc tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý và những người có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý; các cá nhân, cơ quan quản lý nhà nước

Theo quy định của Thông tư, việc thực hiện bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý phải bảo đảm các nguyên tắc sau:

1. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và được quy định tại Luật Bình đẳng giới, các văn bản pháp luật có liên quan khác.

2. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong công tác tổ chức cán bộ và hoạt động của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý.

3. Tăng cường phối hợp giữa tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong hoạt động trợ giúp pháp lý.

4. Người thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm chủ động thực hiện công việc trong phạm vi yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý, sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý; không tạo áp lực cho người được trợ giúp pháp lý hoặc sử dụng các điểm yếu về giới tính của người được trợ giúp pháp lý để buộc họ phải quyết định ngay lập tức hướng giải quyết vụ việc.

Đối với các trường hợp đặc thù quy định tại khoản 1 Điều 12 Thông tư người thực hiện trợ giúp pháp lý phải thông báo cho họ về quyền được pháp luật bảo vệ, được sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí, không được có hành vi phán xét, đổ lỗi, gây áp lực, gây sợ hãi hoặc làm tổn thương về mặt tâm lý cho người được trợ giúp pháp lý.

Thông tư cũng quy định rõ các nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm. Cụ thể trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý không tuân thủ các quy định về bảo đảm bình đẳng giới và có hành vi phân biệt đối xử trên cơ sở giới đối với người được trợ giúp pháp lý thì căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, người thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm báo cáo với cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện thấy hành vi phân biệt đối xử trên cơ sở giới của cán bộ, công chức, viên chức, người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng trong vụ việc cụ thể.

Việc bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý là một trong các tiêu chí xếp hạng thi đua khen thưởng của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý. Đồng thời, chất lượng các vụ việc trợ giúp pháp lý cụ thể được đánh giá trên cơ sở Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và mức độ thực hiện các quy định tại Thông tư. Quy định này nhằm bảo đảm tính khả thi cho việc thực hiện Thông tư trên thực tế.

Việc bảo đảm bình đẳng giới trước hết phải thể hiện ở đội ngũ cán bộ của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Thông tư quy định, cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý có trách nhiệm tuyển chọn, thu hút để bảo đảm có đầy đủ hai giới trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, Trợ giúp viên pháp lý và viên chức pháp lý của Trung tâm và Chi nhánh; bảo đảm đội ngũ cán bộ trợ giúp pháp lý được đào tạo, có kiến thức về giới và ổn định để tích lũy kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, giải quyết vụ việc có chất lượng.

Vấn đề giới là vấn đề tương đối nhạy cảm, do đó, trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý người thực hiện trợ giúp pháp lý phải tuyệt đối tuân thủ quy định về bảo đảm bí mật thông tin của người được trợ giúp pháp lý (Điều 10).

Tất cả các hoạt động như xây dựng kế hoạch, công tác thông tin truyền thông, tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoạt động của Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý và các hoạt động trợ giúp pháp lý khác đều phải có sự lồng ghép giới, bảo đảm bình đẳng giới.

Bên cạnh đó, Thông tư cũng quy định tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm cử người thực hiện trợ giúp pháp lý có kiến thức pháp luật về bình đẳng giới, có kinh nghiệm về giới thực hiện trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật (trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại) cho phụ nữ nghèo, phụ nữ thuộc đối tượng chính sách theo quy định tại Điều 10 Nghị định 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và nữ giới trong các trường hợp: Nạn nhân của bạo lực gia đình; Người đang trong quá trình chuẩn bị thủ tục kết hôn và ly hôn; Nạn nhân bị mua bán; Nạn nhân bị bóc lột sức lao động hoặc bị xâm hại tình dục; Người có tranh chấp, vướng mắc pháp luật, người bị hại, bị can, bị cáo trong thời gian mang thai, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng; Người dân tộc thiểu số ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc người di cư; Người bị nhiễm HIV; Người khuyết tật hoặc đang bị các bệnh hiểm nghèo; Người lao động bị sa thải trái pháp luật hoặc nạn nhân bị lừa đảo trong quan hệ lao động, trong quan hệ hôn nhân gia đình hoặc bị tước đoạt tài sản trái pháp luật. Do trên thực tế đây là những đối tượng yếu thế, trong mọi tranh chấp phát sinh thì khả năng họ tự bảo vệ hoặc tiếp cận được với các dịch vụ pháp lý có thu phí để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình là rất khó thực hiện.

Để bảo đảm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý có chất lượng và phù hợp với từng giới, việc xác định đúng xem người được trợ giúp pháp lý có thuộc các đối tượng đặc thù như kể trên hay không là rất cần thiết. Do đó, Thông tư đã dành hẳn một điều (Điều 13) quy định về xác định người được trợ giúp pháp lý thuộc nhóm đối tượng đặc thù.

Vấn đề bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình là mối quan tâm chung của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân trong xã hội. Thông tư đã quy định về việc phối hợp thực hiện các vụ việc bảo đảm bình đẳng giới trong trợ giúp pháp lý. Theo đó, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cần xây dựng kế hoạch phối hợp nhằm bảo đảm thông tin nhiều chiều giữa các cơ quan, tổ chức liên quan trong giới thiệu nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới, hướng dẫn nạn nhân yêu cầu hỗ trợ ban đầu đến các cơ quan, tổ chức phù hợp để được hỗ trợ theo quy định của pháp luật.

Về kinh phí bảo đảm thực hiện, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có trách nhiệm dự kiến mức kinh phí hoạt động của Trung tâm hàng năm trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và về Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam.

Thu Phong